Monday, May 28, 2007

Dzìa quê ăn Tết

(Hôm nay mình vô tình đọc được bài viết này trên vnthuquan, chỉ là một bài cảm nhận của một phụ nữ Việt Nam lấy chồng Nhật, nhưng đọc vào có thể hiểu được thêm một số phong tục tập quán và cách sống của người Nhật Bản.)

DZÌA QUÊ ĂN TẾT

Cái số tôi về già coi bộ lại nhàn hạ, sung sướng. Năm nào cũng vậy, cứ gần đến ngày giáp Tết vợ chồng tôi lại khăn gói quả mướp đáp tàu Shinkansen (tàu điện siêu tốc) xuôi về Hiroshima cùng đón năm mới với gia đình bên chồng. Tôi hăm hở lắm vì cả năm mới có một lần về thăm bà ngoại, bố mẹ của chàng.
Hầu như mọi cái Tết, tụi tôi chẳng phải sắm sửa gì hết bởi mẹ chồng tôi đã lo chu đáo tất cả. Gia đình chồng tôi sinh sống ở thành phố kure thuộc tỉnh Hiroshima, một tỉnh là nơi trước kia hứng trọn quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống vào Đệ Nhị Thế Chiến. Từ Tokyo chúng tôi đáp Shinkanshen mất 4 tiếng đồng hồ thì về đến trung tâm thành phố Hiroshima. Shinkansen là một loại tàu điện đặc biệt chạy với vận tốc khoảng 250 đến 280 km cho 1 giờ, Shinkansen có đường cao tốc riêng biệt dành cho nó giống như highway. Loại tàu này có thân hình khá bắt mắt và đầu tầu gióng như đầu một con rắn, đẹp và tiện nghi hơn cả các loại máy bay mà tôi đã từng đi qua. Ngồi bên trong, ta có thể nhìn thấy cảnh vật hai bên đường, đặc biệt nhìn rất rõ núi Phú Sĩ sừng sững trước mặt với khoảng cách giữa thành phố Shizuoka và Yokohama. Mùa đông năm nay, Nhật Bản lạnh hơn nhiều so với năm trước, nhưng chỉ có mỗi đoạn đường thành phố Nagoya là có tuyết trắng. Cả thành phố hoàn toàn bị chìm trong làn tuyết.
Từ Tokyo về Hiroshima, tôi ngả ghế và gần như ngủ li bì suốt chặng đường này.
Tàu dừng lại ở ga chính Hiroshima, tụi tôi phải đổi tàu địa phương mất thêm nửa tiếng mới về đến thành phố Kure. Từ ga tàu Kure, lấy taxi mất độ 15 phút nữa thì về đến nhà của bố mẹ chồng. Căn nhà nằm cheo leo giữa lưng chừng một sườn đồi trông rờn rợn. Từ dưới đường quốc lộ đi bộ lên thì mệt dứt hơi, nhưng nếu đi ngược xuống thì khó bước vô cùng vì đôi giầy cao gót cứ chúi đầu mình xuống. Đây là lần thứ sáu tôi trở về ăn tết ở quê nhà chồng, cái Tết truyền thống của người Nhật cũng mang hương vị, bản sắc văn hoá na ná giống như Tết của người Việt Nam mình.
Căn nhà của ba mẹ chồng tôi được làm hoàn toàn bằng gỗ, mái ngói màu xám đen. Bên ngoài trông có vẻ cũ kỹ, xây dựng theo lối cổ điển, nhưng bên trong thì dường như mới tinh, đẹp và tiện nghi giống một khách sạn hạng sao. Căn nhà khá rộng, một trệt và một tầng lầu có năm phòng ngủ, một phòng khách, một phòng bếp, hai toilet, và một phòng tắm, rộng thênh thang nhưng lại chỉ có hai ông bà già trú ngụ. Phía bên ngoài căn nhà, có một sân vườn nhỏ trồng các loại cây kiểng, một hồ cá bé tí ti bên dưới giàn nho đã rụng sạch lá, chỉ còn lại cái khung giàn bằng cây gỗ khẳng khiu và những nhánh dây nho trơ trọi khô cằn. Ngay sát bên hông nhà là sườn núi được chính phủ cho đổ bê tông làm giống như bờ kè để bảo vệ cho đất đá trên cao không sụp lở xuống.
Kure là một thành phố biển với mật độ dân số khá thưa thớt, khoảng 220.000 cư dân, có trường đại học nổi tiếng University of Coast Guard, có vịnh Kure dùng làm nơi đóng quân của Hải quân Nhật Bản. Mấy lần trước tôi đã theo chồng đi khắp đó đây quanh thành phố thăm viếng, đã vào mấy shopping Center lớn của thành phố. Đi từ trên xuống dưới, từ trái qua phải nhưng thú thật chưa gặp được một cô gái Nhật nào có gương mặt xinh xắn dễ nhìn, để mà rình mò chụp lấy một tấm ảnh làm kỷ niệm (săn người đẹp). Nơi đây khác hẳn thành phố Tokyo, đi đến đâu cũng dễ bắt gặp một gương mặt kiều nữ kiêu sa, nhưng chồng tôi bảo rằng Tokyo không phải là nơi sản sinh ra những người đẹp. Theo môt tiểu thuyết gia rất nổi tiếng Nhật, ông này đã đi khắp các nơi để khảo sát, ông kết lại rằng chỉ có tỉnh Akita là địa phương có nhiều người đẹp nhất, từ những bà nội trợ đến những cô gái bán hàng và nhân viên văn phòng... ngay cả các bà xồn xồn, ai cũng đều xinh đẹp cả. Nghe vậy tôi cũng muốn một lần đến Akita cho biết.
Trước khi lấy taxi về nhà, vợ chồng tôi còn nhởn nhơ ngoài siêu thị Sogo cả tiếng, ngắm nhìn người qua lại. Đây là một siêu thị lớn nhất của thành phố Kure, nằm ngay bên cạnh ga xe điện. Cách đây vài năm sogo đã bị phá sản và được đại công ty Itorokado mua lại.
Trung tâm thành phố kure nằm trong một lòng chảo, xung quanh là núi đồi và một mặt hướng ra cửa biển. Hai bên sườn đồi đó dân cư xây dựng nhà cửa chen chúc bên nhau theo tầng lớp trông thật lạ mắt. Lần đầu tiên đến nơi này, tôi cứ ngỡ rằng đây là thị xã Sơn La, một thị xã miền núi quê nhà của tôi bên Việt Nam, người dân cũng dựng nhà bên sườn đồi y như thành phố Kure này, chỉ khác về kiến trúc và sự trù phú của hai nơi, hai đất nước.
Khoảng 2 giờ chiều tụi tôi mới chịu lên taxi để về nhà. Mẹ chồng tôi tươi cười ra mở cửa, bà là một phụ nữ Nhật cởi mở, không giống một số bà mẹ chồng của mấy cô gái Việt Nam mà tôi có dịp quen biết, họ khó tính và có vẻ khinh rẻ người Việt Nam mình. Mẹ chồng tôi hoàn toàn khác hẳn, bà yêu thương quý mến tôi như con gái ruột của bà, bà vẫn thường nhắc nhở chồng tôi:
- Vợ con ở đây có một thân một mình, buồn lắm, con nên dành nhiều thời gian chăm sóc vợ, một năm nên cho về Việt Nam thăm gia đình ít nhất hai lần. Thật tội nghiệp!
Trái lại ba chồng thì căn dặn:
- Hừm...! Vùng này cũng nhiều người Nhật lấy vợ ngoại quốc như Thái Lan, Philipin... họ ở đây cả chục năm không thấy về nước. Vợ con cũng nên như vậy, vài năm hẵng về một lần, về thường xuyên tốn tiền lắm!
Ba chồng tôi là lớp người tiêu biểu cho dân Nhật (mr Kẹo), gia đình ông khá giả, tiền bạc rủng rỉnh nhưng kẹo vô cùng, kẹo đến mức bà mẹ vợ phải thốt lên:
- Tao không ngờ gả con gái cho một tên keo kiệt như vậy!
Nhưng theo lời kể của mẹ, ông anh của bố chồng tôi còn kẹo gấp nhiều lần như vậy. Mẹ tôi kể chuyện về ông anh chồng kẹo và bà cười sang sảng, tôi không tưởng tượng ra ông bác kẹo bên chồng mặt mũi ra sao, và keo kiệt bủn xỉn như thế nào, nhưng cũng khoái chí cười tít cả mắt.
Bên nội chồng tôi có được sáu anh chị em, ba trai, ba gái. Một người em gái mất từ hồi còn nhỏ xíu. Bố chồng tôi là người thứ ba trong gia đình, trên có hai anh trai và sau còn hai em gái. Ngoài hai người em gái thì chỉ mình bố chồng tôi là có con để nối dõi tông đường. Hai ông anh trai đều có vợ nhưng lại không sinh được người con nào. Ông anh đầu đã mất cách đây vài năm. Ông anh thứ hai (tức là ông bác kẹo), ông này thì vợ đã chết sống một mình. Chồng tôi bảo rằng ông bác này khá giả nhất vì trước khi về hưu, ông là sĩ quan cao cấp làm việc trong sở cứu hoả ở thành phố Hiroshima, lương bổng rất cao. Sau ngày về hưu ông còn làm giám đốc cho công ty bia Kirin nổi tiếng của Nhật, nhưng không hiểu sao ông lại thích sống cuộc đời keo kiệt, ky cóp tiền bạc gửi trong ngân hàng để làm gì? Chết có mang theo được đâu?
Bố mẹ chồng tôi sinh được 2 người con, chồng tôi và một đứa em gái kém anh hai tuổi. Cô em gái này có chồng đã 15 năm nay nhưng cũng không chịu sinh con, vợ chồng cô ta sinh sống ngay thành phố Hiroshima này, cách Kure chỉ một tiếng đồng hồ lái xe. Vậy mà sáu lần về ăn Tết với gia đình chồng, tôi vẫn chưa một lần gặp mặt. Đôi khi tôi đem thắc mắc ra hỏi tại sao em gái anh không về thăm ba má trong dịp Tết, hay có phải em gái anh không ưa tôi là người Việt Nam chăng? Chồng tôi gạt đi, không coi đó là điều quan trọng, anh bảo con nhỏ đó vừa xấu người vừa xấu nết, sống lập dị, kêu tôi đừng để ý đến. Thậm chí mười năm nay anh em cũng không gặp mặt, không thư từ liên lạc, không cả điện thoại hỏi thăm nhau, kể cũng thật kỳ lạ, họ coi nhau cứ như người dưng, chẳng có chút xíu tình cảm gia đình ruột thịt. Mẹ chồng đưa cho tôi xem mấy cuốn abum hình chụp gia đình và chụp đám cưới của cô em gái. Cả một đống hình đó mà tôi dòm mãi cũng không thấy được tấm nào chụp cô em chồng cho ra hồn. Khiếp... người gì đâu mà xấu bà cố luôn! Trái lại, cậu em rể coi khôi ngô tuấn tú, cô này đúng thật là có phước! Lúc đầu, tôi tưởng chỉ có mình chồng tôi và cô em gái coi nhau như người xa lạ thế nhưng sau này tôi khám phá ra hầu như người Nhật nào cũng vậy, họ sống lạnh lùng cứ như những con rô bốt biết di động. Bạn bè muốn đến thăm nhau phải thông báo trước cả tháng và hỏi thăm xem người ta có đồng ý tiếp mình hay không. Ngay cả gia đình cũng vậy, kỳ nghỉ lễ vào mùa hè, vợ chồng tôi muốn về quê thăm gia đình nhưng mẹ chồng không đồng ý thì cũng không dám về. Chẳng bù cho người Việt Nam mình, được con cái về thăm bà mẹ nào cũng mừng quýnh quáng.
Lúc này bố chồng tôi không có nhà. Vì là những ngày cuối năm, hôm nay ông đi tảo mộ bên thành phố Takehara cách Kure một giờ đi bằng xe điện và nơi đó mới chính là quê nhà của dòng họ bên nội. Tôi cũng đã đến Takehara tảo mộ một lần khoảng hai năm trước, gọi là thành phố cho nó oai chứ thực ra Takehara chỉ giống như một thị trấn nhỏ, bản sao của thành phố Kyoto với nhà cửa thưa thớt gần giống như khu Little Saigon mà tôi đã có dịp đến thăm vào cuối thu 2004.
Tôi đứng giữa phòng khách, căn phòng nhỏ chừng chín mét vuông thông qua phòng bếp bằng cửa lùa. Ở Nhật hầu như người ta xây nhà giống hệt nhau, các phòng ba mặt đều có cửa lùa thông qua với nhau khi bằng kiếng, khi bằng gỗ. Tôi mở cửa bước sang phòng bên cạnh, đây là căn phòng rộng nhất và là nơi tụi tôi nghỉ ngơi mỗi khi có dịp về thăm gia đình. Một luồng khí lạnh phả vào mặt khiến tôi rùng mình. Căn phòng được ngăn vuông vức bằng những tấm kiếng bông mờ, nền nhà là những mảnh chiếu ghép lại với nhau thật độc đáo, người Nhật gọi loại này là phòng Tatami. Bởi cửa nhà làm hoàn toàn bằng kiếng, lại nằm về hướng Tây, nên ánh nắng chiều chiếu rọi xuyên vào làm căn phòng như sáng bừng lên. Tuy vậy nó vẫn không xoá tan nổi cái lạnh lẽo của chiều đông ở thành phố ven biển. Tôi cởi áo khoác treo lên cái móc nằm phía bên ngoài, tìm kiếm bộ đồ ấm mặc ở nhà trong đống hành trang mang theo. Thay vội vã và bước ngay ra phòng khách, nơi đang đặt cái lò sưởi đỏ rực được đốt bằng dầu hôi phảng phất một mùi thật khó chịu. Căn phòng này cũng là dạng phòng Tatami được phủ lên nền chiếu một tấm thảm sưởi ấm bằng điện. Tôi vốn sợ lạnh, không chịu nổi cái lạnh, mặc dù khi xưa tôi cũng sinh ra và lớn lên ở một vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam, nơi có mùa đông lạnh cắt da cắt thịt.
Mẹ chồng tôi đang đứng trước bồn rửa chén, loay hoay chuẩn bị cho bữa cơm chiều. Thường thì tôi không được đụng vào bất cứ món gì khi bà chuẩn bị nấu ăn. Muốn phụ bà đôi công việc nhưng cứ bị bà đuổi xơi xơi làm tôi thấy ái ngại. Người Nhật họ cầu kỳ trong việc bếp núc, họ dành cả buổi chiều chỉ mỗi việc lo nấu nướng cho chồng con. Bởi vậy, phụ nữ Nhật được khuyến khích ở nhà làm nội trợ có đi làm thì đồng lương ít ỏi không thể sánh được so với đàn ông. Người Nhật họ ăn uống không giống người Việt Nam mình, món ăn nào cũng chia đều ra từng phần nhỏ cho từng người, không có chuyện đồ ăn đựng trong một dĩa rồi mỗi người thò đũa vào gắp chung, họ coi đó là sự mất vệ sinh. Hơn nữa không ai đụng vào phần ăn của ai. Trong lúc bà chuẩn bị nấu nướng thì chồng tôi ngồi bên bàn ăn đặt ngay trong phòng bếp, trước mặt là cái computer nhỏ xíu. Anh đang ôn bài để chuẩn bị cho kỳ thi vào tháng sau. Vừa học bài, vừa nói chuyện rôm rả. Mẹ chồng tôi tính tình cởi mở và hay diễu trò qua điệu bộ bằng tiếng nói, tuy không hiểu cho lắm những gì bà nói, nhưng tôi vẫn cười toe toét khi nhìn gương mặt của bà.
Tôi bước trở ra phòng bên ngoài, lôi trong mớ hành lý mấy hộp quà bánh mà chiều qua vợ chồng tôi cất công lên tận Daimaru nằm trong khu vực ga Tokyo để mua về tặng bà. Mẹ chồng tôi là người khảnh ăn, những thứ của ngon vật lạ nào bà cũng biết đến và đọc vanh vách hương vị của nó. Chồng tôi hiểu ý mẹ nên lúc nào cũng chọn những thức ăn hảo hạng cho mẹ. Hồi đầu, tôi cằn nhằn vì giá cả quá mắc mỏ, chỉ một hộp bánh thôi mà giá bằng cả tháng lương tôi đi làm bên Việt Nam, tôi tiếc đứt ruột đứt gan khi phải chi tiền mua những đồ xa xỉ ấy. Nhưng dạo sau này thì tôi mới hiểu, ở Nhật Bản tiền nào của đó, không có chuyện mua lầm. Mẹ chồng tôi thường gửi lên cho tụi tôi những thứ ngon vật lạ, ăn riết rồi quen miệng. Sau này tôi không thèm động tới những đồ ăn thức uống rẻ tiền nữa, trà xanh phải mua loại hoản hạng, bánh trái các loại phải mua tận trong các siêu thị cao cấp thì mới thấy ngon miệng. Chính bà mẹ chồng đã dạy hư cho cô con dâu Việt Nam vốn trước đây có cuộc sống đạm bạc, nghèo khổ… Đối với người Nhật, chuyện quà cáp rất quan trọng. Nếu bạn đến thăm viếng nhà người khác mà không mang theo quà là một điều mất lịch sự. Quà gì cũng được miễn là quà, đôi khi chỉ là những hộp bánh trái ăn tráng miệng, hộp quà này phải được đưa ra chiêu đãi luôn cả người khách mang đến. Mẹ tôi đón nhận những hộp quà với nụ cười hóm hỉnh và luôn miệng cảm ơn. Người dân Nhật được dạy dỗ từ thủa nhỏ những lễ giáo trong gia đình và câu cảm ơn ở cửa miệng, đúng hay sai gì cũng thấy người ta cảm ơn, xin lỗi rối rít, điều này hiếm bắt gặp ở bất cứ người Việt Nam mình trong xã hội đương thời. Có lần tôi chạy xe bị người khác tông vào, họ không xin lỗi tôi mà còn nổi đoá chửi bới: "Mày đui hay sao mà không biết tránh đường!" Lũ trẻ con nhà tôi cứ trơ mắt đón nhận món quà từ người lớn mà không biết mở miệng nói cảm ơn, mặc dù đã được nhắc nhở mỗi ngày. Tôi thấy cám cảnh cho lớp trẻ thời nay quá!
Trong những câu chuyện qua lại, mẹ chồng tôi bảo rằng ngày mai mẹ sẽ về quê thăm bà ngoại, nhân tiện mang thức ăn tết cho bà. Tôi đòi được đi theo, mấy năm rồi vợ chồng tôi không được gặp bà, tôi dường như quên luôn cả gương mặt của bà ngoại. Thường khi Tết đến, bà ngoại hay lên đón năm mới với con gái ở Kure. Vài năm trở lại đây do tuổi già, bà ngại không lên nữa mà ăn tết một mình cùng với bà con chòm xóm cũ. Bà ngoại sống ở thị trấn Higashi Hiroshima, tôi chưa từng đến đó lần nào, có muốn cũng chẳng dám vì mẹ chồng không cho phép. Lần này bà cũng từ chối bảo rằng lạnh lắm, để mình bà đi được rồi. Bà còn nói thêm rằng tiền lì xì bà ngoại đã gửi lên đây từ mấy bữa trước. Bà lật đật bỏ mọi công việc chạy vào phòng riêng lấy mấy bao lì xì, đưa tận tay vợ chồng tôi. Tụi tôi đón nhận và đáp lại bằng những lời cảm ơn, tiền lì xì năm mới không được quyền từ chối. Nhưng tôi thật sự muốn thăm bà ngoại, không phải chỉ đến để nhận bao lì xì của bà, phần muốn thăm viếng vùng quê cho biết thêm chút ít về những người nông dân Nhật sống ra sao. Cuối cùng tụi tôi cũng thuyết phục được và mẹ cho phép ngày mai về thăm bà ngoại.
Mẹ chồng tôi lúi húi cọ rửa hai cái bình bông nhỏ để cắm hoa chưng lên bàn thờ tổ tiên. Gia đình chồng theo đạo Phật, nhưng chồng tôi lại bỏ Phật theo Chúa. Từ ngày rước vợ qua sống chung thì anh chàng quên luôn cả đạo Chúa mà theo đạo Vợ. Sáu năm rồi tôi chưa hề thấy anh đi lễ nhà thờ, thỉnh thoảng anh cũng mang cuốn Kinh Thánh ra đọc. Tôi không có đạo nên không quan tâm lắm đến vấn đề tôn giáo. Có điều, ai rủ đi đâu tôi cũng đi, chùa tôi cũng đến, nhà thờ tôi cũng ghé qua và cả đạo Shinto (Thần Đạo) tôi cũng từng vô cầu nguyện. Bảo tôi không có đạo cũng đúng mà bảo tôi đa đạo thì cũng đúng luôn. Tôi có vài người bạn theo đạo Chúa, tôi cũng từng theo tụi nó đi nhà thờ. Tụi nó bảo với tôi rằng: "Mỗi khi gặp bế tắc trong cuộc sống, tâm thần trao đảo... tụi nó liền đi nhà thờ, chỉ cần vào trong đó cầu nguyện, tụi nó thấy mọi phiền muộn đều tan biến, tinh thần sảng khoái vô cùng..." Tôi cũng bắt chước làm y như vậy, chắp tay nguyện cầu Chúa mang những phiền muộn trong tôi đi giùm, nhưng tôi lại chẳng thấy cảm giác thanh thản nào cả. Chồng tôi bảo tại vì tôi không có lòng tin.
Mẹ chồng tôi kéo hai đứa vào trườc bàn thờ Phật vừa được bà cho sơn phết làm mới lại. Bà khoe rằng chỉ riêng tiền công sơn phết mà bà phải trả tới 300.000 yên (gần 3000 đô la Mỹ), tôi nghe ù cả hai lỗ tai. Mèn... mắc chi mà mắc rứa! Số tiền này tôi làm hộc mật cũng chưa bao giờ cầm được ở trong tay lúc còn bên Việt Nam. Bàn thờ được đặt trang trọng trong một cái tủ ngay căn phòng mà vợ chồng tôi thường nghỉ qua đêm khi về đây.
Hai cánh cửa tủ được mở toang, tôi choá mắt vì một mầu vàng rực rỡ có vẻ đẹp huyền bí, rờn rợn hiện lên trước mặt. Mỗi một nước lại có những tục lệ, và nền văn hoá khác nhau, bàn thờ của họ cũng thấy khác biệt. Mẹ chồng tôi líu lô xổ ra một tràng mà tôi nghe chẳng hiểu gì cả. Bà đưa cho tôi một cuốn sổ nhỏ, bìa được bọc bằng vải bông hường có viền ngoài bằng nhũ vàng. Cuốn sổ là một tờ giấy kéo dài và xếp lại gọn gàng, bên trong ghi bằng chữ Kanji (chữ Tàu), tôi đọc không hiểu. Chồng tôi giải thích đó là cuốn Gia Phả của giòng họ có từ bao đời nay. Mẹ chồng tôi nhìn với ánh mắt nửa như hờn nửa như trách, ca thán:
- Hai vợ chồng bay không sinh con, sau này cuốn Gia Phả sẽ trao cho ai đây?
Tôi nghe nhồn nhột, cúi đầu không dám nhìn thẳng vào ánh mắt bà. Tôi cảm thấy như mình có lỗi vì cho tới giờ này tôi vẫn chưa sinh được cho bà một đứa cháu nào để nối dõi tông đường, để bà ẵm bồng, nựng nịu. Đón lại cuốn Gia Phả từ tay tôi, bà trịnh trọng đặt nó trở vào chỗ cũ, cúi đầu chấp tay khấn nguyện lầm rầm trọng miệng, khi ngẩng lên, bà vỗ hai tay vào nhau nhẹ một cái, đóng cửa tủ và đi ra ngoài, miệng lầm bầm:
- Con gái không tốt, con trai cũng không tốt, không đứa nào chịu sinh cháu cho bà.
Tôi liếc mắt nhìn chồng, anh bóp nhẹ tay tôi, bàn tay lạnh buốt khiến anh buông ra như thể chạm vào cục nước đá. Tôi có bàn tay rất lạnh, nhất là mùa đông đến nó lạnh ngắt như đá cho dù trong nhà lúc nào cũng mở lò sưởi đủ ấm.
Sáu giờ chiều mà bố chồng vẫn chưa về, mẹ tôi lôi mấy hộp cá sống ra bỏ bên ngoài cho bớt lạnh. Hôm nay bà chiêu đãi tụi tôi món Sasimi (cá sống). Thức ăn khoái khẩu của người Nhật là món cá sống, những miếng cá tươi rói được cắt nhỏ, ăn chung với củ cải sống và wasabi (một loại mù tạt xanh đặc biệt của người Nhật) ăn cay nồng lên tận mũi. Cá sống cũng chia làm nhiều loại, loại không tanh và loại tanh, thường loại cá hơi nặng mùi tanh, họ ăn thêm với gừng sống. Tôi thích nhất món gừng muối dưa của họ, thơm và ngon ăn hoài không biết chán. Tôi mân mê cầm hộp cá bự nhất lên coi, chẳng biết đây là loại cá gì nhưng khi nhìn bảng giá tôi giật bắn mình. Sao mà mắc quá! Một hộp với số lượng 300gr mà giá cả lên tới 6890 yên (gần 60 $) bằng lương công nhân bên Việt Nam làm việc cả tháng. Hộp thứ hai đựng một con mực tươi nhỏ bằng bàn tay, đã được lột vỏ sạch sẽ, trông nó trong suốt như nước, giá đề 2000 yên. Hộp thứ ba là loại cá đặc biệt được gọi là Otoro (một phần ít được lấy ra từ bụng của loài cá Thu chỉ sống ở vùng biển Nhật Bản). Ông ngư phủ nào mà vớ được một con cá loại này thì đúng thật là vô mánh lớn, một con cá có giá vài chục ngàn đô la, đóng cửa nghỉ câu vài tháng.
Bố tôi gọi điện thoại báo bận chưa về nhà kịp, kêu mọi người ăn cơm trước. Mãi đến gần 8 giờ ông mới lọ mọ về. Bố chồng tôi nay đã 76 tuổi, trông còn khoẻ mạnh mặc dù vừa mới qua một đợt phẫu thuật thông tim hồi trong năm. Ông vừa về đến nhà, mẹ vội lật đật dọn cơm cho ông ăn. Bố chồng tôi giống y như một ông hoàng thời trung cổ. Mẹ tôi phục vụ ông tận tình, chu đáo, điển hình cho lớp phụ nữ Nhật xưa kia. Bữa cơm nào của ông cũng phải có món cá sống và rượu sake, ông ăn khoẻ gấp ba lần tôi. Tôi ngồi bên cạnh ngắm nhìn ông ăn cơm với cái miệng móm xọm, bập lên bập xuống trông tức cười. Bố tôi rụng sạch cả răng nhưng lại không chịu đeo hàm răng giả, ông ăn cơm bằng lợi, và nói chuyện cứ phều phào hơi gió, tôi nghe chẳng hiểu gì. Đôi khi tôi rửa mặt ngoài bồn nước, vô tình mở trúng phải cái hộp ngâm hàm răng giả của ông làm tôi sợ chết khiếp.
Buổi tối, tôi nằm ngủ trong căn phòng thoang thoảng mùi dầu hôi toả ra từ cái máy sưởi bên góc nhà, tôi sợ cái mùi này kinh khủng, chỉ hửi một lúc là tôi vang váng nhức đầu liền, tắt thì sợ lạnh mà mở thì bứt rứt không ngủ được, tôi trùm mền kín mít, đến lúc nóng quá lại tung ra... cho đến tận gần sáng mới thiếp đi.
Khi tỉnh dậy thì mặt trời đã lên cao, không thấy mẹ đâu cả, hỏi thì chồng tôi trả lời mẹ đã đi rồi. Tôi dãy nảy lên trách anh sao không chịu đánh thức tôi sớm hơn, tôi muốn gặp lại bà ngoại, tôi muốn thăm viếng quê ngoại của anh... và thật ra thì tôi muốn có được những dữ kiện sống để hoàn tất bài viết của mình vậy mà anh nỡ làm tôi mất cơ hội. Anh phân trần:
- Anh thấy em ngủ ngon quá không nỡ đánh thức. Nhưng nếu em muốn đi thì sửa soạn nhanh lên, hy vọng đón kịp chuyến xe bus lúc 10 giờ tới. Mẹ ra Sogo mua đồ tết cho bà ngoại. 9:30 Sogo mới mở cửa, 9 giờ 50 có chuyến xe đầu tiên, chắc là mẹ có mặt trên đó.
Tôi vội vàng đánh răng rửa mặt, trang điểm lại tí chút và thay quần áo ấm, chỉ vậy thôi mà cũng tới sát nút 10 giờ sáng.
Vợ chồng tôi bước ra khỏi nhà, hướng theo đường quốc lộ đi tới. Anh chàng lướt nhanh như ma đuổi, lâu lâu ngoái cổ lại dục vợ:
- Nhanh lên em!
Còn tôi thì lẽo đẽo chạy bộ theo sau, đôi giấy boot cao cả tấc chao đảo dưới con đường dốc gần như dựng đứng, tôi chúi nhủi đầu xuống dưới nhém té mấy lần. Cuối cùng cũng đến được trạm dừng xe bus, chưa kịp thở thì xe bus trườn tới, tôi nhướng mắt nhìn lên trên cố tìm xem mẹ mình có trên đó không. Trên xe lác đác vài người, may mắn thay, mẹ tôi ngồi ngay cửa sổ, bà cũng vừa nhìn thấy tụi tôi, reo lên mừng rỡ. Tụi tôi leo lên xe và ngồi ngay sau lưng mẹ. Xe từ từ lướt đi, bỏ thành phố Kure lại phía sau lưng.
Từ Kure về Higashi Hiroshima mất hơn một giờ đi xe bus, con đường khá đẹp, phẳng lì không hề có ổ gà ổ vịt. Thấp thoáng xa xa là những làng mạc phố phường nằm dưới thung lũng, những căn nhà cổ kính, mái ngói đỏ au, những rặng núi xanh biếc, chập chùng xa tít, khiến tôi lại nhớ đến quê mình.
Khoảng hơn 11 giờ trưa một chút xíu, xe bus đã vào trung tâm thị trấn Higashi Hiroshima. Xe chạy chầm chậm và ngừng hẳn lại bên đường khi tới trạm dừng của xe bus. Cả ba lục tục kéo xuống trước khi bỏ tiền vào cái hộp để ngay trên đầu xe, gần nơi tài xế ngồi. Trên Tokyo, bước lên xe bus hành khách phải trả tiền liền, còn nơi đây, khi nào xuống xe khách hàng mới phải trả, từng trạm giá tiền khác nhau, tuỳ từng đoạn đường mình đi.
Thời tiết hôm nay khá đẹp, bầu trời trong xanh thấp thoáng những đám mây trắng bàng bạc bay lơ lửng trên cao. Ông mặt trời nhả những tia nắng vàng dịu lên con đường rải nhựa mịn màng. Đối diện bên kia đường là một cửa hàng nho nhỏ bán đủ các thứ kể cả cơm hộp, cà phê, thuộc hệ thống bán lẻ Family Mart. Vợ chồng tôi bước theo mẹ đi ngược trở lại khoảng 10 thước tới một ngã tư đường, từ đó quẹo tay phải đi thêm một đoạn ngắn nữa, đụng ngã tư thứ hai. Mẹ tôi đi chậm lại, ngó nghiêng rồi chỉ trỏ, bà giải thích rằng hồi xưa trạm xe bus ở đây, không phải ở chỗ hồi nãy. Ngày nay, khu thị trấn này dân cư đã đông hơn trước nhiều. Tôi cũng đưa mắt nhìn quanh, nhà cửa san sát, mái ngói đỏ au, đa phần nhà đều xây dựng theo một kiểu, mái ngói cong vòng. Trên những bức tường rào xây bao quanh, tôi thấy họ đặt vài cặp chim bồ câu quay đầu vào nhau, trông ngộ nghĩnh, tôi cũng không hiểu họ làm vậy có ý nghĩa gì, chắc chắn không phải là để... đuổi cọp và tôi mang thắc mắc này ra hỏi mẹ, nhưng bà cũng không biết luôn, bà đoán chắc để cho đẹp. Hồi mới qua Nhật, ngồi trên xe điện nhìn xuống, tôi thấy nhà nào nhà nấy nhỏ bé y như mấy cái chuồng chim bồ câu, vậy mà khi bước vào trong, căn nhà trở nên rộng rãi, thoáng đẹp và đầy đủ tiện nghi.
Đến ngã tư, chúng tôi lại quẹo phải, đi thêm một quãng ngắn nữa, mẹ tôi đưa tay chỉ về phía trước, bà bảo căn nhà nhỏ nhất đằng kia là nhà của bà ngoại. Căn nhà xinh xắn có tường màu trắng đục và mái ngói đen xám nằm lọt thỏm trong một khu phố đều lợp ngói đỏ au, trông nó lẻ loi trơ trọi y như ngoại tôi sống đơn độc tại đây gần cả cuộc đời mình. Từ bên ngoài, chúng tôi thấy bóng dáng ngoại nhỏ bé thấp thoáng đi lại bên trong. Mẹ tôi gõ cửa rầm rầm, gọi bà ầm ĩ nhưng tuyệt nhiên cửa vẫn đóng im ỉm, bà ngoại điếc nên chẳng nghe gì. Tôi cũng đưa tay đập cửa vài lần, cả ba cùng đồng thanh gọi bà ngoại, nhưng cửa vẫn đóng chặt không xê dịch, tôi lẩm bẩm cười một mình: "bà ngoại điếc lòi tĩ chả nghe gì cả!" Mẹ tôi đi vòng lại phía sau nhà, vừa đi vừa lẩm bẩm điều gì đó mà tôi nghe không rõ, chỉ một lát mẹ tôi ra mở cửa cho chúng tôi vào.
Bà ngoại cũng bước lại gần cửa, xin lỗi vì già điếc nên không nghe gọi cửa. Bà mặc bộ đồ ấm mầu xanh đậm, cái áo dầy cộp quần đông xuân mang vớ cũng dầy, trông bà có vẻ nặng nề. Mái tóc muối tiêu của bà cắt ngắn với gương mặt trắng hồng, đặc biệt hai gò má đỏ chót, đỏ hơn cả tôi đánh má hồng. Lạ một điều, năm nay bà ngoại 86 tuổi, vậy mà nước da trên gương mặt vẫn láng mịn, ngoại trừ vùng mắt và vùng khoé miệng. Trông bà vẫn mạnh khoẻ, bước đi nhẹ nhàng, không có vẻ gì là của người già nua. Tôi thầm nghĩ, bà chắc phải sống thêm cả chục năm nữa.
Tụi tôi lọt hẳn vào bên trong, đóng cửa lại, tôi loay hoay cởi đôi giầy boot, chồng tôi nhắc khéo, em chào bà ngoại đi nhớ bảo là "Harimematshite" (câu chào của người Nhật khi lần đầu tiên gặp mặt) nhé. Tôi cãi lại rằng tôi đã gặp bà rồi, nhưng chồng tôi lại lên tiếng bà ngoại không nhớ đâu. Tôi cúi đầu, chắp tay chào bà ngoại, bà cũng đáp lễ lại y như vậy. Lần này không giống như lần đầu tiên cách đây vài năm, bà ngoại ngồi quỳ gối trên tấm gối mỏng trong phòng Tatami, vái lậy tôi như tế sống làm tôi bối rối không biết đường nào lần, đó là phong tục của người Nhật.
Bước vô trong nhà, tôi có cảm tưởng như lạnh hơn ngoài đường, lạnh run bần bật. Tôi chui ngay sang phòng khách, xà xuống như ôm lấy máy sưởi. Mẹ chồng đứng bên ngoài phòng bếp đưa từng món trong giỏ đựng thức ăn ra cho bà ngoại xem và dặn bà những món gì. Tôi ngồi xoay lưng lại cái máy sưởi, nhìn vào phòng bên trong (phòng ngủ của bà ngoại). Các cửa lùa đã được mở toang, căn phòng khá gọn gàng, và tôi cũng nhìn thấy bàn thờ Phật giống y như bàn thờ bên nhà mẹ chồng tôi, nhưng trông nó cũ kỹ hơn. Phía trên đầu cửa có treo một tấm hình truyền thần vẽ người đàn ông mặc quân phục quân đội. Chồng tôi giải thích đó là hình ông ngoại. Anh kể rằng ông ngoại đã hy sinh trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, lúc bà ngoại 28 tuổi và mẹ thì chỉ khoảng 3 tuổi. Bà ngoại ở vậy nuôi con thờ chồng cho đến tận ngày nay tức là đã 58 năm rồi. Bất giác tôi quay sang phòng bên ngắm nhìn bà ngoại, lòng không khỏi xốn sang thương cảm. Bà ngoại thấp tè, tôi đã thuộc dạng xì trum, vậy mà bà chỉ đứng ngang vai tôi, mẹ thì cao hơn bà ngoại một chút, bố chồng cũng vậy, chỉ ngang tôi, hèn gì chồng tôi cũng rứa. Hồi mới quen nhau, tôi hay mang cái dáng dấp lùn tịt của anh ra ghẹo: "Sao người Nhật em thấy ngoài đường cao ráo mà sao anh thì lùn vậy? Có phải anh bị ảnh hưởng bom nguyên tử ở Hiroshima không?" Chồng tôi chỉ cười, ký đầu tôi bảo rằng tôi chỉ được cái nói vớ vẩn là giỏi!
Mẹ chồng tôi sau khi xếp thức ăn tết vào tủ lạnh cho bà ngoại, bà vẫy tụi tôi qua thăm chị bà con đang sống gần đây. Tụi tôi đi theo mẹ băng qua vài con lộ, đường phố vắng teo chẳng thấy bóng người nào. Mặt trời đã đứng bóng, ánh nắng vàng trải dài trên những đồng ruộng trơ gốc rạ. Miền quê Nhật Bản sao mà yên tĩnh lạ lùng! Thấp thoáng bên vệ đường là những cái vườn nho nhỏ trồng cải thảo, khoai tây, bắp cải, họ làm nhà và phủ ni lông lên trên để chống rét cho rau. Chồng tôi bảo, nếu không làm vậy rau sẽ chết lạnh hết.
Chồng tôi đưa tay chỉ về phía trước:
- Căn nhà kia hồi xưa bà ngoại sống ở đó!
Mẹ tôi dừng chân trước cổng ngôi nhà, tụi tôi cũng dừng theo. Mẹ tôi ngắm nghía cái cổng rồi bảo căn nhà này hình như vừa được sơn sửa mới lại, mùi sơn vẫn còn hôi nồng. Tôi ngắm nhìn cái cổng, nó được trạm trổ khá cầu kỳ. Cánh cổng mở toang, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Bên trong garage có mấy cái xe máy cầy máy kéo, bên tay trái có thêm một căn nhà khác, chắc đó mới là căn nhà chính để ở. Mẹ tôi đi vào, chào thật to:
- Kon ni chi wa! (chào buổi trưa).
Tụi tôi cũng lật đật chạy theo, mẹ tôi cất thêm tiếng chào mấy lần nữa mới thấy một ông già từ phía ruộng đi lên, cười vồn vã. Chồng tôi giới thiệu ông là dượng, chồng của dì mình. Tôi cúi đầu chào, ông độ ngang tuổi với mẹ, dáng người dong dỏng cao, trông khoẻ mạnh. Để mặc cho mẹ tôi nói chuyện với ông, chồng tôi quay ra đùa giỡn với con mèo ngay bên hiên nhà. Con mèo vện lông xám có gương mặt thật dễ thương, mập ú ù. Chồng tôi mê mèo còn hơn mê vợ, suốt ngày ước có một con mèo, nhưng vì sợ bệnh dị ứng mũi của tôi nên đành phải chịu không dám rước về nuôi.
Bỏ mặc anh bên ngoài tỉ tê với mèo, tôi theo mẹ vào trong nhà, mẹ và dượng đứng nói chuyện ngay trước ngưỡng cửa nhà trên, tôi cũng đứng kế bên vểnh tai nghe lóm. Cả hai cứ xì xồ líu la líu lô như chim hót, nhưng dù có nghe rõ cũng chẳng hiểu họ nói gì với nhau vì kẻ phiên dịch thì mắc lo "nhiều chuyện" với con mèo bên hiên nhà. Mẹ đưa biếu dượng túi quà mà nãy giờ tôi vẫn xách trên tay, mẹ chỉ sàn nhà và kêu tôi ngồi tạm, mẹ cũng ngồi xuống luôn đó mà không vô hẳn nhà. Đến lúc này dì mới bước ra, dì trông trẻ hơn mẹ tôi đôi tuổi, cao ráo và nhỏ nhắn. Tôi đoán chắc hồi trẻ dì cũng thuộc diện xinh gái ra trò. Giống như mẹ chồng tôi, dì cũng mất cha từ nhỏ, cả hai dì dượng trông đều chất phác, hiền lành chất phác như những người nông dân Nhật Bản.
Chồng tôi vẫn đứng ngoài vuốt ve con mèo, dượng tôi để mẹ và dì nói chuyện với nhau, ông chạy ra bên ngoài cùng chồng tôi bàn tán về con mèo. Tôi cũng bước vội ra theo vì bên ngoài có nắng ấm hơn trong nhà. Nhìn thấy dượng, con mèo vội tuột khỏi tay anh lao đến quấn lấy dượng rồi ngước cặp mắt ướt nhìn dượng kêu meo meo ra điều nhõng nhẽo. Dượng tôi kể rằng cách đây mấy tháng, con mèo bị tai nạn gãy cả cổ đưa đi cấp cứu trên bệnh viện, nó phải trải qua mấy đợt giải phẫu mới cứu sống được. Con mèo nay trông có vẻ mạnh khoẻ, chẳng có dáng vẻ gì bệnh tật gì, cổ đeo cái chuông tí xíu, mỗi bước đi nghe tiếng kêu leng keng. Cả nhà ai cũng cưng nó hơn vàng ngọc, lúc sau này mẹ tôi bảo con mèo thương ông dượng nhất, ông đi đâu nó cũng theo, ông lái xe thì nó nhẩy lên vai ông theo ông đi tới mọi chỗ, khi bị tai nạn nằm trên bệnh viện, ông dượng cũng phải ở lại đó với nó. Tôi dửng dưng không quan tâm mấy vì dù sao nó cũng chỉ là một con mèo. Có tiền thì mới vậy chứ nghèo như dân Việt Nam quê tôi, dám con mèo này đẫ bị bắt trộm làm món ăn đặc sản! Cách đây vài ngày, chồng tôi đọc trong tờ quảng cáo về nghĩa trang cho thú vật, mỗi mộ phần nghe đâu phải mua chừng hai triệu yên (gần 20,000$), anh ta tính đòi mua một mộ phần cho con mèo Harry Kun yêu quý của anh đã chết cả chục năm nay. Tôi gạt đi không chịu, anh cứ làm như 2 triệu yên là mớ giấy lộn.
Mấy người đứng ngoài hiên nhà bàn tán, nựng nịu con mèo dễ thương. Dì tôi vào trong nhà lục lọi một chút rồi trở ra trên tay xách một bịch bánh mochi, một loại bánh dày đã được xấy khô, mang tặng mẹ. Dì đưa cho tôi một bao lì xì nhỏ, mừng tuổi tôi. Tôi ngập ngừng hết nhìn mẹ lại nhìn dì chưa biết xử trí ra sao thì mẹ tôi đã lên tiếng cảm ơn giùm. Tôi lễ phép đưa hai tay đón nhận bao lì xì vì ngoài bà ngoại và mẹ, tôi chưa nhận tiền lì xì của ai bao giờ. Dường như chán cảnh đông người, con mèo lỉnh đi mất. Mẹ tôi kêu vợ chồng theo ra thăm viếng khu mộ phần của giòng họ ngoại. Tất cả đi tắt qua một cánh đồng khá rộng một bên trồng lúa một bên trông khoai tây. Chồng tôi thì thầm đây là khu ruộng của dì dượng. Dượng tôi trước khi về hưu làm công nhân cho hãng chế tạo xe Matsuda, những ngày cuối tuần thì về nhà làm ruộng. Người dân ở đây đa phần là vậy, trong tuần đi làm hãng xưởng, cuối tuần làm nông kiếm thêm thu nhập, bởi vậy đa phần người nông dân Nhật có cuộc sống khá giả và giàu có hơn dân thành phố. Người nông dân Nhật sướng quá, họ làm ruộng hoàn toàn bằng máy, cày xới cũng bằng máy, gieo trồng cũng bằng máy, tưới tiêu hay làm cỏ gì cũng đều bằng máy cả. Thấy cuộc sống của họ, tôi cảm thương người nông dân nước mình, đến bao giờ noong dân Việt Nam mới có được cuộc sống như người nông dân Nhật bây giờ, chắc cả trăm năm nữa cũng chưa được. Nhìn những cánh đồng dài bất tận, không khí trong lành, thị trấn yên tĩnh, tôi thủ thỉ vào tai chồng:
- Mai mốt nghỉ hưu, vợ chồng mình về đây sống hén.
Anh cười cười và bảo không bao giờ, anh không chịu được cuộc sống của miền thôn dã nên đã bỏ nơi đây lên Tokyo lập nghiệp.
Khu mộ phần của bên ngoại nằm cách nhà chừng 200 thước, trên một mô đất cao ráo, sạch sẽ, khang trang. Tuy rằng gia đình bên ngoại tôi theo đạo Phật như mộ phần được xây theo hình chữ thập giống như những ngôi mộ của người theo đạo Thiên Chúa Giáo, đẹp và cầu kỳ. Mộ của ông tổ to nhấtnằm chính giữa, mộ của con cháu nhỏ hơn nằm hai bên, có khi chỉ nhỏ bằng cái thẻ bài. Người Nhật đi tảo mộ vào cuối năm, họ mang theo hoa Cúc, và một loại lá cây đặc biệt chuyên dùng cho để cúng người chết. Thăm viếng mộ phần, dọn dẹp sạch sẽ, cắm hoa, lấy bình nước tưới đều lên các tấm bia để rửa sạch các bụi bậm. Người Nhật hầu như không còn tục lệ thắp nhang cho người chết.
Sau khi thăm viếng khu mộ phần của giòng họ ngoại, tôi chụp hình dì dượng làm kỷ niệm và chia tay ngay đó để rẽ qua lối khác về nhà bà ngoại. Trên đường trở về, cả ba tạt qua Family Mart mua cơm hộp ăn trưa, Về đến nhà, lúc này tôi mới để ý, căn nhà bên ngoài trông nhỏ bé, nhưng bên trong khá rộng có hai phòng ngủ, một phòng khách. Tôi đi vòng quanh nhà ngó nghiêng thăm dò, phòng tắm, phòng toilet đều đẹp và tiện nghi không khác gì trên thành phố. Đằng sau căn nhà là một dẻo vườn nhỏ nằm theo hình vòng cung được rào chắn cẩn thận. Đây là nơi bà ngoại trồng khoai tây, cà rốt và các loại rau quả làm thú vui tuổi già, ruộng lúa của bà, đã cho người khác mướn canh tác vì bà già cả không còn làm nổi. Ở Nhật, miền Bắc và miền Tây, người ta chỉ trồng lúa một lần một năm vào mùa Xuân, thu hoạch vào mùa Thu, nhưng ở miền Nam thì trồng làm hai lần. Người Nhật quan niệm phải để cho đất nghỉ ngơi, nếu lạm dụng quá đất sẽ cằn cỗi và không còn cho gạo ngon nữa. Có lẽ nhờ vậy mà gạo của Nhật ngon và mắc nhất thế giới, loại thượng hạng 5 $ cho 1 kg, gạo thường cũng phải mất 3 $ /1 ký lô. Tại thị trường Nhật, chưa có gạo nước nào qua mặt được gạo Nhật, tôi đã từng mua thử gạo của Úc, Mỹ về ăn, nhưng rồi cũng phải bỏ vì tuy rẻ hơn được tí chút nhưng ăn cơm không thấy ngon. Thường gạo nhập được dùng vào việc chế biến thực phẩm khác như làm snack, làm bột, làm bánh...
Bà ngoại đã bao lần từ chối lời đề nghị về sống chung với con gái trên thành phố Kure, bà bảo rằng bà còn khoẻ, tự nấu ăn được, tự lo cho mình được và còn lấy việc trồng rau làm thú tiêu khiển tuổi già. Nếu lên kure, bà chẳng có việc gì làm, tối ngày ngồi xem tivi vì mọi việc đã có con gái tận tình phục vụ, chắc bà sẽ chết sơm mất. Bố mẹ tôi thuyết phục mãi không nổi, năm ngoái đã bỏ tiền sửa sang lại căn nhà này cho bà, cơi nới thêm một phòng để thỉnh thoảng về thăm nghỉ lại qua đêm. Chỉ nội việc đó không thôi mà phí tổn lên tới hơn 5 triệu yên, tôi nghe mà đau quặn bụng, với số tiền đó tôi có thể mua được một căn nhà kha khá bên Việt Nam để dưỡng già.
Cả nhà lôi cơm hộp ra ăn trưa, mẹ chồng ngồi theo thế quỳ gối, chồng tôi và bà ngoại cũng vậy. Tôi bắt chước theo, nhưng chỉ khoảng hai phút sau là cảm thấy khó chịu, chân tê cứng, ráng tới 10 phút thì tôi ngồi bệt xuống, đầu hàng. Ở những vùng quê này, người Nhật vẫn còn giữ phong tục tập quán cũ, cách ăn mặc và đi đứng cũng như kiểu ngồi khi xưa.
Chồng tôi bảo rằng ngày xưa người Nhât không có bàn ghế như Tây phương, bất kể đàn ông hay đàn bà ngồi đều quỳ gối trên sàn nhà, quỳ riết người phụ nữ Nhật lùn tỉn và có bắp chân to như chân voi. Cũng giống như người Việt Nam cổ xưa có bàn chân giao chỉ, ngón chân cứ thè lè ra, trông gớm chết!Có một điều này có thể nhiều người chưa biết, bàn chân người Á Châu, nhất là người Việt Nam, Lào, Campuchia, Trung Quốc, Thái Lan... có hình dáng khác hẳn người Tây phương, bàn chân người Tây phương họ đi giầy từ nhỏ nên bàn chân múp ở đầu, bàn chân người Á châu vì đi chân đất hay thói quen đi dép lẹp bẹp nên bàn chân toè ra y như hình cái quạt, bởi vậy sản xuất giày cho người Á Châu hoàn toàn khác mẫu với người Tây phương.
Bà ngoại cứ đi ra đi vào lăm le muốn mở toang hết mọi cánh cửa trong nhà cho thoáng. Mẹ sợ tôi lạnh nên cản lại. Chồng tôi giải thích, vì bà ngoại mặc nhiều đồ ấm nên bà ngoại không sợ lạnh, bà muốn mở cửa để đón không khí trong lành, mặc dù có máy sưởi lẫn máy lạnh nhưng bà không bao giờ thèm xài. Mấy người già họ cho rằng những thứ này đều độc hại đến sức khoẻ. Mẹ còn nói thêm tối đến bà ngoại đội nón để ngủ. Tôi ngắm nhìn bà ngoại, rồi lại ngắm mấy cái máy nóng lạnh mới toe treo trên tường nhà, mỗi phòng một cái, lòng thầm nhủ, uổng phí thật, không xài lắp làm chi cho tốn tiền. Có lẽ nhờ hít thở không khí trong lành, lại vận động nhiều cộng thêm chế độ ăn uống điều độ, nên bà ngoại tôi sống khoẻ mạnh như bây giờ. Người Nhật họ ít ăn thức ăn chứa dầu mỡ, chủ yếu là cá và tàu hũ. Tôi nghe chồng tôi nói rằng, xưa kia Nhật Hoàng cấm thần dân của họ không được ăn các loài thịt đỏ, có lẽ vì vậy mà dân Nhật lùn. Ngày nay sau bao năm thay đổi, người Nhật đã cao lên một cách đáng nể. Tôi lại thủ thỉ bên chồng, sau này về hưu, vợ chồng mình dọn về đây sống hén, vừa khỏi phải mua nhà, vừa có cuộc sống nhà hạ. Mình mở nhà hàng hay quán cà phê thêm cho vui. Chồng tôi gạt đi, không, ở đây không buôn bán gì được, đã có người mở rồi, nhưng không ai đến ăn uống nên phải dẹp tiệm.
Ở lại với bà ngoại thêm một lúc, cả ba mẹ con tụi tôi lại lục tục kéo nhau ra trạm xe bus đón cho kịp chuyến xe vào đúng 1 giờ 50 chiều. Trước khi ra về, tôi cố ngoái lại chụp một tấm hình bà ngoại nhỏ bé đứng bên bậu cửa nhìn theo, hy vọng còn gặp lại bà nhiều lần nữa.
Trạm đón xe bus nằm ngay trên chiếc cầu bắc ngang con suối nhỏ trên đường quốc lộ. Mùa Đông, con suối đã cạn khô chỉ còn tí xíu nước dưới đáy, trơ ra những viên đá sỏi, có vài bụi tre là ngà mọc đâm lên từ hai bên bờ. Tôi treo bịch bánh mochi lên thành cầu cho đỡ nặng, thấy vậy anh tôi nhắc nhở:
- Coi chừng kẻo xe tới em quên đó nghen.
Tôi im lặng không trả lời, đưa mắt nhìn xuống lòng suối khô cạn, gió thổi mạnh, lạnh muốn thấu tim gan. Bên dưới đầy rác rưởi, bịch ni lông, xác bao gói đồ ăn vứt tung toé, trông chẳng khác nào cảnh bên Việt Nam mình. Trời lạnh quá! Tôi đứng co rúm cả người lại, cứ mỗi lần đút hai tay vào túi áo cho ấm là bị anh nắm lấy lôi ra, anh bảo đàn bà con gái không được đút tay vào túi áo như vậy, người ta nhìn vào đánh giá mình là người không có học. Nhưng lạnh quá chịu không nổi tôi lại đút tay vào, anh lại thò tay kéo ra làm tôi bực mình thụi cho anh một cái, đẩy anh ra chỗ khác. Mặt trời biến mất, bầu trời sậm lại, gió thổi từng cơn mang cái rét đến như cắt da xé thịt. Nếu đúng theo lịch trình thì xe bus đã tới, nhưng có lẽ vì ngày cuối năm, ai cũng muốn nhanh chân về nhà sớm nên đường quốc lộ xe cộ nối đuôi nhau như nêm củi, vì vậy mà xe bus bị trễ.
Cả ba mẹ con tụi tôi đều ngong ngóng về phía trước coi xe bus đến chưa, nhưng tuyệt nhiên chẳng thấy nó đâu cả. Tôi thất vọng, dựa hẳn người vào thành cầu lơ đãng nhìn về phía trước mặt, chếch phía bên kia cầu có một căn nhà xây theo kiểu ngồ ngộ, khác hẳn những căn nhà xung quanh. Chồng tôi thấy tôi chăm chú nhìn vào nó bèn cất tiếng:
- Căn nhà đó hồi xưa là một tiệm cà phê đấy, nhưng chẳng có ma nào đến uống nên tiệm phải đóng cửa.
Tôi nghe vậy bỗng phì cười, nghĩ thầm, thế mà mình lại dự dịnh mai mốt anh nghỉ hưu, hai vợ chồng về đây sinh sống mở nhà hàng nữa. Chồng tôi vẫn đều đều bên tai:
- Em có biết tại sao mái ngói lại màu đỏ không?
Tôi nhìn sững anh không trả lời, anh tiếp:
- Anh không biết sao nó lại có mầu đỏ nhưng ngói loại này mắc tiền hơn loại mầu xám đen, chắc chắn nó tốt hơn ngói đen.
- Nó có màu đỏ vì nó được nung từ một loại đất sét đỏ, bên Việt Nam đầy. Thế mà cũng không biết.
Hồi còn "bao cấp" để có một căn nhà ngói ba gian là một việc khó vô cùng. Dù có đủ tiền nhưng mẹ tôi đã phải vác đơn chạy từ đầu trên xuống xóm dưới xin xỏ mãi mà phải chờ mất hơn cả năm mới được xét duyệt cho phép mua ngói về lợp nhà. Ngày nhận ngói trong xí nghiệp, tôi nhờ thêm mấy đứa bạn cùng lớp theo xe vào tận nơi bốc xếp, rồi ngày dựng nhà, tôi cũng chỗm trệ ngồi trên mái, giơ tay bắt từng viên ngói từ dưới thảy lên cho mấy bác thợ lợp nhà mình. Tuy nhiên, ngói bên Việt Nam mình có màu gạch non, tươi rói, viên nào viên nấy rám thô, không được mịn màng và đỏ sậm như ngói của Nhật.
Xe bus đã tới, cả ba chúng tôi cùng leo lên xe, một làn hơi ấm toả ra khiến tôi dễ chịu. Trên đoạn đường về nhà, mắt tôi díp lại, cơn buồn ngủ ập tới khiến tôi gục xuống, thiếp đi.
Tôi giật mình tỉnh giấc thì xe đã vào thành phố, tụi tôi không về nhà ngay mà đi thẳng ra ngoài siêu thị Sogo, tôi muốn mua một ít thịt xay, rau sống để chiều nay trổ tài nấu đố ăn Việt Nam cho cả nhà thưởng thức. Đến Sogo mới chỉ 3 giờ chiều, mẹ con tôi dạo một vòng bên dưới rồi leo tuốt lên lầu tám, nơi có nhiều nhà hàng ăn uống và có hẳn một nhà sách rộng lớn bên trong. Chồng tôi mê sách, đi đâu, làm gì anh cũng phải ghé vào tiệm sách mới chịu. Tôi thì không ưa vì tôi chẳng có việc gì làm trong nhà sách, chữ nghĩa không biết, chỉ đứng lớ rớ coi tranh ảnh trong mấy tạp chí, đứng hoài thì mỏi chân làm tôi bực bội. Nhưng lần này có mẹ chồng nên phải chiều anh ta, lẽo đẽo theo hai người lên nhà sách.
Mẹ tôi dừng lại đứng ngắm lịch năm mới ngay đầu nhà sách, vợ chồng tôi cũng dừng lại theo. Anh đưa tay huých nhẹ tôi, nháy mắt ra hiệu về phía mẹ. Tôi nhìn bà rồi liếc lên mấy cuốn lịch treo trên tường, mỉm cười. Mẹ chồng tôi đang say mê ngắm hình mấy tài tử người Đại Hàn, miệng xít xoa khen ngợi. Mấy năm trở lại đây, mấy bà mấy cô người Nhật phát rồ lên vì làn sóng phim ảnh, ca nhạc bên xứ Hàn (trong đó có cả mẹ chồng tôi) họ là những fan trung thành của điện ảnh Hàn Quốc, đặc biệt họ mê nam tài tử tên Bê hay Bi gì đó (tôi nhớ mặt mà không nhớ tên) đóng vai chính trong trái Tim Mùa Đông. Mỗi khi anh chàng xuất hiện trong phim, quàng khăn hiệu gì, lập tức mấy bà liền mua đúng y chang hiệu đó, có bà còn sưu tầm đủ các loại hình ảnh của chàng trên tạp chí... cắt dán đầy phòng ngủ của mình. Có những cặp đi du lịch xứ Hàn, đến tận nơi thăm viếng phong cảnh trong phim mà cặp tài tử họ yêu thích quay ở đó, rồi bắt chước diễn lại y như cảnh trong phim... đến nỗi đài ti vi NHK của Nhật đã làm một phóng sự về chuyện đó, tôi thấy sao mà lố bịch quá, nhìn ngứa mắt chịu không nổi. Tivi của Nhật khai thác triệt để chuyện này, hơi một tí là họ lại đưa lên truyền hình, đi phỏng vấn tùm lum, thật là rách việc! Một lần tôi vô tình xem tin tức, đúng vào dịp anh chàng XXX qua Nhật giới thiệu bộ phim mới, ti vi đưa tin rầm rộ. Các nàng kiều nữ ra tận phi trường Narita đón thần tượng, rồi anh chàng hăm hở đi ra. Người hâm mộ đưa tay vẫy lia lịa. Tôi đếm cũng được khoảng vài chục nàng, những cái đầu lố nhố, những nụ cười bẽn lẽn, e ấp che miệng theo đúng kiểu cách người Nhật. Nhưng khi máy quay cận cảnh, gương mặt các nàng hiện ra mồn một trên màn ảnh. Mèng ơi! Nàng nào nàng nấy xấu bà cố luôn, có nàng thì má hóp đít tóp, răng cửa chìa lìa ra ngoài, có nàng mập như voi, mắt ti hí, nhao nhao giơ tay vẫy gọi thần tượng. Tôi thở dài ngao ngán, nếu tôi là anh chàng tài tử đó, tôi sẽ buồn 5 phút khi không thấy một bóng hồng nào ra đón mình. Coi hết đoạn phim, tôi quay sang hỏi chồng mình:
- Anh này, bộ Nhật hết người đẹp rồi hay sao mà để mấy bà trông ghê quá ra đón ngôi sao xứ "Củ Sâm" vậy?
Chồng tôi lắc đầu:
- Mấy người đẹp ai ở không đâu mà ra đón. Sao em không ra mà đón?
- Xì... em đâu có khùng dữ vậy. Mà nè, chắc em phải viết một bài về vụ này mới được.
- Em viết đi, mấy bà biết mấy bà tới phá nhà em cho mà coi.
- Em viết bằng tiếng Việt mấy bà có đọc được đâu mà sợ.
Chỉ vài tháng lại đây thôi, mẹ chồng tôi cũng mê phim Hàn Quốc như điếu đổ, bà mua cả loạt DVD, CD về xem, những lúc rảnh rỗi, bà vào phòng riêng đóng cửa lại "enjoy" một mình, không như những lần trước, hầu như bà chỉ ngồi trò chuyện với vợ chồng tôi.
Về tới nhà, tôi bắt tay vào chuẩn bị bữa ăn, tôi bằm nấm mèo, hành tây, khoai tây thật nhỏ để trộn với thịt xay làm nhân chả giò, một món ăn thông dụng của người Việt mình. Hôm may tôi dự định làm ba món, chả giò, trộn gỏi theo kiểu Thái Lan và nấu phở gà. Mọi thứ gia vị tôi đã chuẩn bị sẵn từ ở nhà trên Tokyo, rau húng quế, ngò gai, ớt tươi được mua trước từ chợ Việt Nam khi lên Jamato thăm người bạn. Sau khi trộn nhân chả giò xong xuôi, tôi mở giỏ lấy bánh tráng để cuốn chả giò, nhưng hỡi ơi tìm mãi mà không thấy, trong giỏ chỉ có hai bịch bánh phở khô, tôi toát cả mồ hôi hột...chết rồi, chắc quên không bỏ vào hành lý rồi. Tối hôm trước khi về Hiroshima, tôi sợ mình hay quên nên lấy ra trước, bỏ trên bàn ăn để sáng mai sắp vào giỏ mang đi, vậy mà bánh phở, rau thơm thì nhớ mà bánh tráng lại quên. Hốt hoảng, tôi la lên với chồng. Nghe tôi nói, anh vội đưa hay tay lên đầu hàng:
- Anh không ra chợ mua bánh tráng cho em đâu đấy.
Mẹ chồng tôi nghe thấy, cười cười:
- Vậy thì chiều nay ăn cái gì? Mẹ đã không chuẩn bị bữa chiều.
Tôi đứng nghệt mặt, trong bụng rủa thầm sự vụng về thối thây của mình, từ đây ra chợ quá xa mà một mình thì tôi không biết đường đi nước bước. Cuối cùng, tôi đem vo viên thố nhân chả giò, chiên lên, cuốn rau sống chấm nước mắm, ăn cũng ngon như ai.
Sau bữa cơm chiều, bố tôi nằm lăn ra ngủ. Mẹ thì rút vào phòng riêng nghe nhạc. Chồng tôi cặm cụi bên máy điện toán đọc tin tức, còn tôi ngồi xem chương trình ca nhạc cuối năm. Vào ngày cuối năm, đài NHK bao giờ cũng có một chương trình văn nghệ quy tụ những ngôi sao của cả nước, chương trình kéo dài tới 3 tiếng đồng hồ, mãi cho đến đúng 11:45 mới kết thúc, trước khi mười hai tiếng trống gõ sang canh đón mừng năm mới.
Mặc dù là một đại nhạc hội "hoành tráng" qui tụ hàng loạt những ngôi sao ca nhạc hàng đầu của Nhật Bản, với bốn MC nổi tiếng nhất nước hai già, hai trẻ) thế nhưng tôi chẳng thấy có gì là hay ho, tệ y như chương trình nhạc xuân của tivi Việt Nam hát toàn nhạc ca ngợi Đảng, Bác. Thật sự tôi chỉ thích nghe những ca sĩ lớn tuổi hát nhạc tình cảm, còn lớp trẻ thì xin kiếu, tôi sợ mấy anh chàng với mấy cô nàng ăn mặc như người hành tinh ra sân khấu nhẩy cà tưng hét hò ủm tỏi, tôi nghe không hiểu mà âm điệu cũng kỳ dị không kém gì trang phục của họ, phải thú thật rằng, tôi vừa xem vừa chửi. Chồng tôi ngồi cạnh đó thì luôn miệng hối tôi tắt đi, ồn ào quá anh chịu không được, anh bảo với tôi nhạc trẻ thật là kỳ dị đó cũng là lý do anh chẳng bao giờ mua nhạc Nhật về nghe mặc dù anh ta là người Nhật chính cống. Chồng tôi mê sách và là một người am hiểu âm nhạc, thời tuổi trẻ anh đã từng làm DJ cho vài discotheque tại Tokyo. Anh không bao giờ tiếc tiền khi sưu tầm những dĩa nhạc mình yêu thích, có khi bỏ 200 đô la ra mua một bài hát gốc. Chiều nay, anh soạn ra mấy thùng toàn dĩa nhạc cổ anh để lại đây, mẹ tôi bảo đem bỏ thùng rác, nhưng anh cứ đòi giữ lại tất cả. Tôi thấy người Nhật đa phần có thói quen kỳ lạ, ưa sưu tầm đủ thứ và họ chẳng muốn bỏ bất cứ cái gì của họ, ngay cả quần áo cũ không mặc tới họ cũng chẳng muốn vứt bỏ, có người giữ trong kho đến cả 20, 30 năm, nhà cửa họ bừa bộn không gọn ghẽ ngăn nắp.
Còn 15 phút nữa là bắt đầu một năm mới, tivi cho chiếu trực tiếp cảnh người dân trên toàn quốc hăm hở đón Giao Thừa. Ngày xưa trước năm 1872, người dân Nhật đón năm mới theo âm lịch, nhưng từ năm 1873 trở lại đây, Nhật Hoàng đã thay đổi lại toàn bộ niên lịch của nước Nhật, bắt buộc thần dân của họ phải theo lịch Tây phương, ăn theo Tết Tây. Cũng như người Việt mình, Tết Nhật có nhiều hương vị, bản sắc giống Tết của người Việt mình. Gần tết, nhà nào cũng treo Shime-Kazari.
Shime-kazari được kết từ cây lúa, bện lại thành vòng tròn, chính giữa buộc quả quýt, bên trên có hai nhành lá xoè ra. Theo tục lệ, người Nhật cho rằng nếu nhà nào có treo thứ này thì vị thần linh sẽ đến thăm nhà, mang lại nhiều may mắn cho họ. Khi treo Shime-Kazari trước cửa nhà, âm binh ma quỷ sợ sẽ không dám bén mảng tới. Cũng giống như tục lệ trồng cây Nêu trước cửa vào Tết Nguyên Đán bên Việt Nam mình.
Người Nhật đón năm mới bằng những chùm pháo bông rực rỡ trên bầu trời. Đúng Giao Thừa, tiếng trống vang lên từ chùa chiền, dân họ cũng ùa lên chùa, nhà thờ, đền Shinto xin lộc. Đêm giao thừa, các nơi thờ cúng đèn điện sáng trưng, mở cửa đón người dân đến cúng bái xin lộc đầu năm. Vào ngày này, xe điện ngầm, xe bus đều hoạt động cả đêm, để cho người dân có phương tiện đi lại, thay vì như thường lệ đến 12 giờ khuya là nghỉ chạy. Người Nhật họ đi theo ngành nghề, nhà nông đi theo nhóm nhà nông, ngư phủ đi theo nhóm ngư phủ, làm thương mại đi theo nhóm thương mại đến cúng vái trời đất thần linh mang lại may mắn cho họ. Trước giờ Giao Thừa, người Nhật phải ăn một món mì nào đó, để cho cả năm không bị đói.
Sáng Mồng Một Tết, người dân Nhật thường thức dậy thật sớm, họ bước ra khỏi nhà và chờ đón vầng dương hé mở, họ tin rằng tia nắng mặt trời đầu tiên của năm mới sẽ đem may mắn cho họ cả năm.
Bữa điểm tâm sáng, đa phần nhà nào cũng có món ăn truyền thống Osechi-Ryori, uống rượu Sake và ăn bánh Mochi. Osechi-Ryori được làm rất cầu kỳ, bao gồm nhiều loại và thường được những đầu bếp danh tiếng của những khách sạn sang trọng trổ tài. Oseichi- Ryori có rất nhiều giá, giá trung bình vào khoảng 30,000 yên (gần 300$) một hộp. Năm nay, kinh tế Nhật tăng trưởng, người dân dư giả tiền bạc, họ không tiếc tiền để chi phí cho Osechi - Ryori. Loại mắc tiền nhất có giá gần 800 đô la một hộp do đầu bếp của Takashimaya, vì thức ăn phải bảo đảm chất lượng nên chỉ có 50 hộp loại mắc nhất được tung ra bán, 15 phút sau đã không còn một mống. Tôi xem tin tức mà cứ băn khoăn, mắc như vậy thì nó sẽ ngon như thế nào? Mẹ chồng tôi hàng năm đặt mua Osechi-ryori tại một khách sạn sang trọng tại Kure với giá 30.000 yên. Thú thực, tôi ăn cũng chỉ thấy bình thường, còn có phần dở là đằng khác, món nào cũng lạnh ngắt, cá hơi tanh, dưa thì chua lòm, trứng chiên ngọt lịm, tôm cứng queo. Vậy mà ai ăn cũng nức nở khen ngon. Mỗi người dù không biết uống rượu cũng phải nhắm môi một chút. Rượu Sake có bỏ thêm bột vàng, uống vào tăng thêm sức khoẻ và mang lại may mắn cho cả năm. Cuối cùng ăn thêm một tô xúp mochi. Nước xúp được nấu từ dashi (rong biển, cá khô bào mỏng), nước tương, đường, muối có bỏ củ cải, cà rốt và nấm hương cô. Cũng vì tục lệ này mà hàng năm cứ vào đầu năm mới hàng chục cụ ông cụ bà bị chết nghẹn vì vướng cục Mochi ngay cổ. Năm nay chưa thấy báo chí công bố có bao cụ thiệt mạng vì ăn mochi. Mô chi là một loại bánh được làm từ bột gạo nếp như bánh dày của người Việt mình Buổi trưa, trời hửng nắng, cả nhà chuẩn bị đi đền thờ xin lộc đầu năm. Thường chỉ có mẹ và vợ chồng tôi đi, bố tôi không quan tâm tới tôn giáo. Từ nhà tới đó khá xa, phải đi bằng taxi mất chừng 20 phút.
Năm nào tôi cũng đi đền thờ này một phần cũng vì ham vui. Ngôi đền nằm trên một quả đồi khá cao. Vì là ngày Tết, mọi người dân xứ này đổ đến đây đi lễ rất đông nên phải sắp hàng dài cả cây số, nhích lên từng chút từng chút một. Hai bên đường và cả trong khuôn viên đền thờ người dân dựng lều buôn bán đồ ăn tại chỗ, bánh trái, mì, nước giải khát... nhiều vô kể. Đặc biệt, ở đấy không hề có ăn xin, ăn mày lộng hành như tại chùa ở Việt Nam. Cúng xong mọi người lại ra về trong trật tự.
Vì năm nay là năm Tuất, có nhiều người mang theo cả chó lên đền thờ Thần Đạo, những con chó đủ loại, Tây, Tầu, Nhật lẫn lộn, được ăn diện diêm dúa, áo, váy, nơ cột xanh đỏ trông thật ngộ.
Cách đây hai năm, tức là vào năm tôi 37 tuổi, mẹ chồng tôi bảo tuổi này xui xẻo, nên đưa tôi vào hẳn bên trong đền thờ Thần Đạo để nhờ các bậc tu sĩ cao nhân cúng giải xui cho tôi. Chồng tôi phải điền tên tôi và địa chỉ nơi sinh sống vào một tờ giấy để tu sĩ đọc tên khi dâng lên Thần Đạo. Xong, chỉ mình tôi được vào bên trong phòng này cùng những người khác lạ hoắc. Mẹ và chồng tôi phải đứng chờ bên ngoài.
Căn phòng khá rộng, có một sân khấu ở ngay đầu phòng, các tu sĩ cầm chổi lông trắng như cước đứng phe phẩy ngay bên hai cách gà, tu sĩ nào cũng mặc đồ trắng toát, lòe xòe trông cứ như tiên nữ trong phim Tàu. Tôi ngồi trong đó chờ khá lâu, phải gần nửa tiếng. Sau đó một vị tu sĩ khả kính bước lên sân khấu, ông trịnh trọng đọc tên từng người, tôi phải cố gắng lắng nghe ông đọc đến tên mình, để còn lên tiếng là mình có mặt. Đến tên người nào, những người tu sĩ bậc thấp hơn sẽ mang chổi lông trắng phe phẩy trước mặt mình, hình như để họ đuổi tà cho mình. Và cuối cùng mình sẽ được trao cho một bao thư trong đó đựng một tấm thẻ mầu trắng, ghi chữ kanji đen và đóng dấu màu đỏ. Mẹ tôi bảo hãy giữ tấm thẻ này cẩn thận vì tấm thẻ đó đại diện cho Thần Đạo mang lại may mắn cho tôi.
Tôi lấy làm thắc mắc vì gia đình chồng tôi theo đạo Phật, vậy mà hầu như mẹ chồng tôi lại thường thăm viếng cúng kiếng nơi đền thờ Shinto (Thần Đạo). Chồng tôi bảo rằng người Nhật không quan trọng họ theo đạo gì. Năm mới họ thường đến cầu xin may mắn tại đền Shinto, tuy nhiên cũng có người đi chùa và có người đi cả nhà thờ, vậy nhưng khi có người nhà chết, họ lại đến chùa cầu phật, cúng bái cho người chết theo đạo Phật.
Đạo Thiên Chúa ở Nhật, không có điều lệ khắt khe giống như bên Việt Nam mình, chồng tôi bảo chỉ có người Nhật mới vậy, nếu khắt khe quá, sẽ chẳng có ai theo đạo Chúa hết. Vậy là tôi cũng giống người Nhật, đa đạo, lúc đi chùa, lúc đi nhà thờ và lúc thì đi đền thờ, dám Nhật có đạo Hồi hay đạo Do Thái, tôi cũng đi tuốt luốt.
Người Nhật sống rất thực tế, khi đi đám dự đám cưới, đám ma, hay đi thăm người bệnh trong nhà thương, họ đều phải có quà cáp mà chủ yếu là tặng tiền mặt.
Về cưới xin, người được mời dự lễ cưới của họ nhất định phải là người thân trong gia đình hoặc bạn bè thân thiết... vì mỗi đám cưới độ khoảng 50 người, có cao lắm thì cũng chỉ 80 người mà thôi. Vì cả đời chỉ có một lần nên họ thường chọn nơi tổ chức đám cưới của mình ở những khách sạn khá sang trọng, khách sạn họ bao chọn từ A tới Z, từ nghi lễ đến tiệc tùng, trang điểm cô dâu, chụp hình... và cả phần quà cáp lại cho khách mời. Giá cả trung bình cho một đám cưới 50 người khoảng 2 triệu đến 3 triệu yên (20,000 đến 30,000 đô la), tuỳ mình lựa chọn. Bởi vậy khi mời khách đi dự đám cưới đều phải chọn lọc kỹ càng và gửi thông báo trước vài tháng để khách chuẩn bị thu xếp đi dự. Thường người Nhật họ đi dự tiệc cưới đều tặng tiền mặt, tối thiểu một người phải bỏ bao thơ 30.000 yên (khoảng 300$), tiền được bỏ trong một cái bao thật đẹp, riêng cái vỏ bao thơ giá cũng lên đến 10 đô la, loại 1 đô la cũng có nhưng không khách nào xài cái thứ rẻ tiền này, người Nhật họ rất trọng hình thức. Nếu bạn đi dự tiệc cưới của người Nhật, bạn đừng bao giờ lo lắng thức ăn không được ngon miệng như đi dự tiệc cưới bên Việt Nam. Bảo đảm chất lượng tuyệt hảo. Sau bữa tiệc, khách sẽ được tặng một món quà giá trị khoảng 50 đô la, thường là một bộ dĩa ăn bằng sứ hoặc bộ ly tách... loại cao cấp.
Vợ chồng tôi cũng đã đi dự một tiệc cưới của người bạn vào đầu năm 2005, chỉ là dự tiệc phụ, không phải là bữa tiệc chính có nghi lễ hẳn hoi, vì bà con giòng họ của anh này đông quá nên tất cả bạn bè đều được mời dự tiệc vào buổi tối tại một nhà hàng. Tôi nhớ hôm đó là thứ Bẩy, chồng tôi phải đi học, anh hẹn đón tôi tại ga và dặn đi dặn lại:
- Em nhớ phải mặc áo lạnh loại dài đấy vì hôm nay trời có thể đổ tuyết.
Trời hôm đó không đổ tuyết mà lại dở chứng đổ mưa tầm tã cả ngày, lạnh như đóng đá. Tôi trang điểm thật đẹp, thay bộ đồ dự ăn tiệc đã mua từ trước cả tháng, đi ra đi vào ngó trời, chỉ cầu mong nó tạnh mưa, nhưng chờ mãi mà trời vẫn không ngừng trút nước.
Trước 5 giờ chiều, chồng tôi gọi điện thoại về dặn nhớ đến đúng giờ và đứng nguyên một chỗ đứng đi lung tung để anh khó kiếm. Mỗi lần có việc hẹn nhau ngoài ga nào đó là chồng tôi lại quạu nhặng xị:
- Phải mua cho em cái cellphone thôi!
Với tôi điện thoại di động chẳng quan trọng vì tôi ít khi đi ra ngoài, mà điện thoại di động thì trong nhà tôi không có tín hiệu (ngoài vùng phủ sóng). Mấy bữa trước tiệc cưới, chồng tôi có vẻ nôn nao, anh bảo mong đến bữa tiệc để xem cô dâu trang điểm ra làm sao (?) Tôi cười và bảo:
- Gớm, cô dâu xấu như ma, làm gì mà nôn thế!
Anh lắc đầu:
- Thế thì em không biết rồi, "sờ tai lít" (chuyên gia trang điểm) Nhật giỏi lắm... rồi em xem.
Lúc đấy, tôi không thể nào hình dung được gương mặt cô dâu sẽ xinh đẹp ra sao dưới bàn tay nghệ thuật của người trang điểm. Cô dâu này thì tôi đã gặp nhiều lần, vào khoảng tuổi tôi hoặc hơn tôi chừng 1, 2 tuổi gì đó, thân hình như con khô cá lẹp, da dẻ nhăn nhúm, mặt nhỏ như nắm tay... có đắp vàng vào vẫn xấu, làm cách nào cho đẹp được.
Đúng 6 giờ chiều, tôi có mặt tại ga như đã hẹn trước, chồng tôi và anh bạn Kofuku đang đứng ngay cổng xoát vé chờ. Tụi tôi cùng cùng ở đó thêm chừng 10 phút để chờ một người bạn khác là Watanabe đi thăm viếng công ty cũ cách đây không xa. Thấy lâu, Kofuku tình nguyện đi tìm, vợ chồng tôi đứng thêm một lúc, chẳng thấy ai quay lại nên tự động lên trên mặt đất để tới nhà hàng. Trên đường ra, vô tình gặp Watanabe, thế là cùng nhau thoát ra khỏi đường xe điệm ngầm.
Lên đến trên, trời vẫn còn mưa, hai anh chàng dừng lại trước tấm bản đồ thật lớn đặt ngay trước cửa xuống ga tàu điện ngầm. Chồng tôi lôi tấm bản đồ nhỏ mà tối hôm qua anh đã in ra sẵn để tìm vị trí nhà hàng. Hai ông đứng đó xì xồ mất đến 5 phút mà chưa xác định ra địa điểm nhà hàng nằm ở đâu, người thì chỉ bên trái, kẻ thì chỉ bên phải, cứ cù cưa mãi cũng chưa biết đi về hướng nào. Tôi đứng bên cạnh lạnh run như cầy sấy, chẳng biết gì mà tham gia.. Tôi chỉ mong sao mấy anh chàng tìm được nhà hàng cho sớm để chui vào đó tránh cái lạnh. Cuối cùng chồng tôi quyết định đi về hướng tay trái của nhà ga, phải băng qua một ngã tám ngã chín đường đi chằng chịt, tay tôi lạnh cóng, cầm cái dù không muốn nổi, gió thổi cứ muốn bạt tôi đi, chân tê cứng cố bước vội theo chồng. Qua bên kia đường, tụi tôi còn đi thêm một đoạn khá xa. Dường như nhận ra lạc hướng, hai ông mãnh lại quyết định quay ngược trở lại, đến chỗ cũ hai bố lại lôi tấm bản đồ nhỏ, đứng trước tấm bản đồ lớn, chỉ trỏ này nọ. Tôi đã bắt đầu nổi quạu, vậy mà sáng nay anh ta còn dặn tôi nếu lên ga không gặp nhau thì tôi cứ việc đến thẳng nhà hàng, dễ tìm lắm, chỉ cách ga khoảng một phút đi bộ thôi. Cùng lúc đấy, chồng tôi nhận được điện thoại từ Kofuku, anh này cũng đang lạc hướng, chưa biết nhà hàng ở chỗ nào. Họ đều là người bản xứ mà tìm mãi còn chưa ra, phải để tôi đi một mình chắc có nước đi dzìa nhà luôn. Thấy hai ông cứ đứng chỉ trỏ mãi, tôi đâm ra bực bội cằn nhằn:
- Đi về phía bên tay phải thử coi.
- Nhưng không thấy tiệm Lawson đâu cả? Trong bản đồ hướng dẫn nhà hàng nằm về phía tiệm Lawson - Lỡ cái tiệm đó bị phá sản đóng cửa rồi thì sao? Cứ đứng đó mà đoán mò, tui sắp chết cóng rồi nè!
Nghe lời tôi, hai ông mới chịu đi về hướng tay phải, quả đúng như vậy, nhà hàng chỉ cách đó chừng một phút đi bộ, thế mà tụi tôi loanh quanh mất gần cả tiếng mới tìm ra.
Nhà hàng nằm dưới hầm một toà nhà thật lớn, tuy trời mưa tầm tã và lạnh cóng, nhưng phố phường đèn điện vẫn sáng choang, tráng lệ. Tụi tôi dò dẫm đi xuống từng bậc thang dẫn vào nhà hàng. Trước mặt, có khá nhiều khách còn đứng chờ tới lượt. Thì ra, trước khi bước vào nhà hàng, khách phải chờ hai cô gái ngồi canh cửa dò tên theo danh sách khách mời và... trả tiền ngay tại đó. Tới lượt tôi, cô gái đó ngước nhìn, tươi cười hỏi tên. Chồng tôi đáp lời, cô ta liền nói:
- Ông bà Takahashi hai người là 22 ngàn 500 yên.
Tôi móc bóp lấy tiền đưa cho cô gái đó và nhận lại hai lá bài tây từ tay cô, tôi không hiểu cầm hai lá bài này để làm gì? Chồng tôi giải thích để chút nữa tham gia chơi game.
Lọt được vô trong nhà hàng, tôi thở phào nhẹ nhõm, cởi áo khoác ngoài cho nhân viên phục vụ cất giữ và đi thẳng vào bên trong. Khi tôi vừa dớm chân bước đi thì bị một người đàn ông tóm lấy, kéo ra gần cửa, ngơ ngác chưa biết là vụ gì thì anh ta tươi cười giơ cái máy chụp hình lên, thì ra mỗi người khách đều phải chụp một tấm hình để ghép vào cuốn abum làm kỷ niệm cho cô dâu chú rể Người kéo tôi ra chụp hình trông quen quen, hình như tôi đã gặp ở đâu đó mà hiện thời chưa thể nào nhớ được. Sau khi chụp hình cho tôi xong, anh ta lôi tấm ảnh từ trong máy ra, phẩy phẩy vài cái và đưa nó cho tôi, nói đại khái:
- Cô giữ lấy, chút nữa sẽ có người đến thu lại tấm hình.
Tôi mỉm cười đón nhận tấm hình vẫn đang còn một mầu đen mờ mờ rồi đứng né qua một bên để cho anh ta chụp hình chồng tôi. Lúc này tôi mới để ý đến nhà hàng, sao nó tối thui tối mờ, nhìn mặt người không rõ. Ồ! đây không phải là nhà hàng mà nó giống như một cái Bar rượu, chính giữa có một cái cột nhà thật to, đặt ghế nhỏ xung quanh. Cái Bar này có hình gì tôi cũng không biết, vuông cũng không ra vuông, hình chữ nhật cũng không ra hình chữ nhật, phía bên tay trái và đằng trước mặt cũng có một số ghế đặt quanh đó. Tất cả đã có người chiếm lĩnh hết, vợ chồng tôi đến sau nên đành phải đứng nhìn. Dường như đoán được những thắc mắc trong đầu của tôi, anh giải thích:
- Đây là bữa tiệc đứng, các món ăn tự chọn, bên kia là bàn để nước, em muốn uống gì cứ tự nhiên ra lấy.
Tôi nhìn dáo dác xung quanh, mèng ơi! đứng thế này thì chắc chết, nãy giờ tôi đã đi lòng vòng tìm chốn này cả tiếng đồng hồ, chân mỏi nhừ, bị đứng thêm nữa chắc xỉu quá... Nhưng rồi cũng phải chấp nhận vì chẳng còn một cái ghế trống nào nữa.
Vài người bạn khác đi lại, bắt tay chồng tôi, cười nói rổn rảng, tôi chỉ gật đầu chào. Phía ngay gần cửa ra vào là một sân khấu nhỏ, bên cạnh có cầu thanh uốn cong lên trên một cái gác nhỏ, tiếng nhạc phát từ cái máy hát dĩa cổ điển, bài nhạc quen thuộc:
...I love you, baby And if it s quite all right I need you, baby To warm a lonely night I love you, baby Trust in me when I say Oh, pretty baby Don t bring me down, I pray Oh, pretty baby Now that I found you, stay And let me love you, baby Let me love you...
Tôi lắc đầu, nhún nhẩy, miệng lẩm nhẩm hát theo bản nhạc. Xung quanh, mọi người đứng tụm vào từng nhóm, thì thầm to nhỏ. Chồng tôi kéo tay hướng về một cái bàn trong góc, đưa tôi cây bút và bảo ghi vài lời chúc mừng vào sau tấm hình tôi vừa chụp hồi nãy, tấm hình nay đã hiện rõ gương mặt, nhỏ xíu bằng nửa bàn tay. Tôi hỏi anh?
- Viết cái gì bây giờ?
- Em viết cái gì cũng được, những lời chúc mừng tốt đẹp đến với họ.
- Viết bằng tiếng Việt Nam được không?
- Em viết tiếng Việt Nam thì ai hiểu?
Tôi đặt bút ghi một dọc bằng chữ Nhật, chỉ là tô theo ý của chồng tôi, xong đưa nó cho cô gái đang đứng chờ bên cạnh.
Quay trở lại chỗ cũ, anh chàng chụp hình hồi nãy cũng nhập hội, đến lúc này tôi mới nhớ ra anh ta chính là bạn đồng nghiệp của chồng tôi tên Ito, tôi có gặp vài lần trong những bữa tiệc gặp mặt bạn bè cuối năm. Ito khá điển trai, cao, to và có gương mặt thật đàn ông. Lúc trước anh ta làm việc chung trong công ty thời trang Duban cùng với chồng tôi, anh ta cũng là một trong những người mẫu sáng giá chuyên chụp hình quảng cáo cho sản phẩm của công ty. Sau này nghỉ ở nhà mở công ty địa ốc riêng. Chồng tôi bảo rằng Ito chẳng cần làm cũng có cuộc sống vương giả, của cải gia đình anh ta ăn mười đời chưa hết. Anh ta thừa hưởng vài toà building ngay phố Ginza, một phố đắt đỏ nhất Tokyo, nghe nói vậy tôi cũng mắc thèm. Người thứ hai đứng kế bên tôi tên là Arai, anh này cưới vợ được có hai năm là ly dị, chốn biệt bạn bè mãi tới năm ngoái mới liên lạc lại. Anh có gương mặt đẹp trai nhưng lại hơi thấp người, chắc chỉ cao hơn anh chồng lùn của tôi chút đỉnh. Kế nữa là Watanabe, cao, ốm nhom và nốc rượu như nốc nước lã, thêm vài người nữa mà tôi không nhớ tên. Kofuku hồi nãy đi chung với tụi tôi thì chiếm được một cái ghế, ngồi cách nhóm tụi tôi khá xa. Tóm lại, mấy ông bạn chồng tôi đều là dân Tokyo, gia đình khá giả, trông sáng sủa đẹp trai. Chỉ riêng mình chồng tôi từ tỉnh lên phố, một mình tự tạo dựng sự nghiệp, lại là anh chàng xí trai nhất, lùn nhất và nghèo nhất đám. Đôi khi những lúc vui, tôi mang anh ra phân bì:
- Sao bạn anh ai cũng giàu có, đẹp trai, mà anh thì vừa xấu, vừa lùn lại vừa nghèo vậy?
Chồng tôi cười, ký đầu tôi bảo:
- Đàn ông thì đâu cần phải đẹp trai, điều quan trọng là sự nghiệp, với lại miễn sao có cô vợ đẹp đi bên cạnh là hãnh diện rồi. Em thấy không, người đàn ông thành công bao giờ cũng có vợ xinh đẹp, thông minh... Mai này anh sẽ giàu cho mà coi!
Tôi lè lưỡi xí một tiếng thật dài.
Đúng 7 giờ 30 tối, đèn bật sáng, chú rể nắm tay cô dâu từ căn phòng nhỏ trên gác từ từ đi xuống trong tiếng vỗ tay vang lên rầm rộ. Mọi người đều hướng mắt về phía sân khấu. Chồng tôi xít xoa:
- Wow... Cô dâu dễ thương quá!
Tôi cũng nhìn theo không chớp mắt, quả là cô dâu hôm nay xinh thật, lộng lẫy y như nàng công chúa ngủ trong rừng vừa được chàng bạch mã hoàng tử đến đánh thức. Cô dâu xúng xính trong chiếc đầm dạ hội mầu hồng lợt, choàng khăn voan mỏng đính kim tuyến sáng lấp lánh, tóc bới cao và cài duy nhất một bông hoa mầu trắng khá to. Quần áo, đầu tóc và cả gương mặt đều tương xứng với nhau một cách tuyệt hảo. Tôi thầm thán phục tay nghề trang điểm của người Nhật. Quả chồng tôi nói không sai, cô dâu hôm nay lột xác từ con vịt xấu xí biến thiên con thiên nga xinh đẹp mỹ miều, những cái xếp li trên da mặt biến mất, da dẻ mịn màng. Tôi băn khoăn không biết họ làm cách nào để tẩy lớp da sần xùi ấy đi được. Chú rể mặc bộ đồ vest màu trắng, cổ thắt cà vát đen, cài hoa trắng bên ngực trái. Bình thường, tôi vẫn hay trề môi chê anh bạn của chồng tôi đẹp trai, giàu có mà chọn cô bồ trông chán ngấy, nhưng hôm nay thì quả là xứng đôi.
Sau phần giới thiệu về cô dâu và chú rể là màn chụp hình, máy camera dighital, máy điện thoại di động chớp loé liên tục, tiếng nhạc êm dịu vang lên, bữa tiệc bắt đầu. Mọi người túa nhau ra bàn đựng thức ăn ngay bên quầy bar phía tay phải. Tôi đứng nguyên một chỗ không nhúc nhích, thức ăn được chồng tôi và mấy ông bạn rinh về. Đã 8 giờ tối, hầu như mọi người đều đói meo, chẳng ai thèm khách sáo mời gọi, tất cả đều nhập tiệc. Với tôi, lúc này dù đồ ăn nấu không ngon cũng thành ngon tuốt vì đói muốn mờ mắt.
Đồ ăn được tiếp lên liên tục, nóng hổi, thơm nức mũi. Tôi chỉ được đói con mắt, mới ăn có tí chút là đã no căng cả bụng. Bên cạnh, chồng tôi vừa ăn vừa nói chuyện với bạn bè. Mr Shibata từ bàn bên cạnh qua bên bàn tôi góp chuyện, anh này lúc xưa cũng là đồng nghiệp của chồng tôi, tôi đã gặp vài lần khi hẹn nhau đi ăn chung. Shibata cao, đô con, đầu tóc lúc nào cũng vuốt keo dựng đứng nhuộm đỏ hung trông như tây lai. Shibata bảo rằng mỗi lần anh ta vào bar uống rượu, đám Okama (bê đê) mê anh ta như điều đổ, sán lại làm quen. Chồng tôi cười bảo rằng, tạng người như Shibata, Okama thích lắm. Tôi nghe nhưng chẳng cười nổi, lúc này hai chân tôi chỉ muốn khuỵu xuống, đầu óc quay cuồng.
Chồng tôi biết tôi thấm mệt, đưa mắt nhìn xung quanh tìm ghế trống cho tôi ngồi nghỉ nhưng hoàn toàn chẳng còn cái nào. Anh khẽ nói bên tai tôi:
- Xin lỗi em, đàn ông Nhật như vậy.
Thật sự lúc đấy tôi chỉ muốn chửi toáng lên, đàn ông Nhật gì đâu chẳng biết ga lăng cho phụ nữ chút nào cả, để tôi đứng gần hai tiếng đồng hồ mà chẳng ai chịu nhường ghế cho tôi ngồi nghỉ một chút, hai bắp chân tôi tê dại, tụ máu cứng ngắc, tôi vịn vai anh bảo:
- Mình đi về đi, ăn tiệc xong rồi.
Chồng tôi ngập ngừng:
- Bữa tiệc đang còn, sao lại bỏ về trước, kỳ lắm.
- Nếu vậy thì ra ngoài tìm chỗ nào cho em ngồi tạm, em chịu hết nổi rồi.
Đàn ông Nhật đầu óc vẫn còn cổ hủ, nếu họ không được ra ngoại quốc công tác, hoặc đi du học mà cứ du dú sống tại Nhật thì hầu như họ chẳng biết ga lăng cho phụ nữ là gì. Họ vẫn thích cuộc sống kiểu chồng chúa vợ tôi, vợ khép nép sợ chồng như sợ cọp. Vừa lúc đấy có một cái ghế bỏ trống, chẳng biết chủ nhân của nó đi toilet hay là đi lấy đồ ăn, tôi không thèm lịch sự nữa, lao ngay về phía đó và chiếm lấy cái chỗ ngồi duy nhất còn trống. Thật sự lúc đấy không có gì sung sướng bằng được ngồi nghỉ sau gần ba tiếng đồng hồ đứng trên đôi giấy boot cao cả tấc. Chồng tôi đứng bên cạnh, thì thào:
- Có thể cuối năm nay, mình lại được đi dự đám cưới của Nakamura nữa.
- Đám cưới giống như vầy hả, thôi anh đi một mình đi, tôi không đi theo đâu.
Anh cất tiếng cười giòn giã. Tôi ngồi nghỉ được một lúc, cảm thấy khoẻ hẳn lên. Trên sân khấu nhỏ, bắt đầu tổ chức trò chơi có thưởng. Đầu tiên bốn người nam mang những lá bài theo quy định bước lên sân khấu, họ thi uống bia. Bốn ly bia to đùng được châm đầy, ai uống nhanh nhất nguời đó chiến thắng, phần thưởng là một chiếc đầu máy DVD. Tiếp theo bốn người nữ, cũng thi uống bia. Lần này giải thường là một chiếc máy mát sa chân. Kế đến bốn người đàn ông khác thi xếp hình con chim, Kofuku bạn chồng tôi là người chiến thắng, gấp được con chim nhanh nhất, giải thưởng là một ký thịt bò Kobe. Rồi đến bốn người nữ, trong đó có cả tôi tham gia, được đưa cho một tờ giấy vuông vức yêu cầu xếp hình con chim. Má ơi... phải chi hồi đó tôi theo ông Tè học lớp xếp hình trong Thư Viện Việt Nam thì bây giờ đâu phải đứng nghệt mặt ra không biết làm. Cầm tờ giấy hí hoáy gấp đôi rồi lại gấp xéo, có quân sư Kofuku bên cạnh chỉ dẫn nhưng mãi cũng không xếp được ra cái hình gì. Ba cô bạn bên cạnh cô nào cũng giỏi, chỉ một loáng là họ xếp xong. Tôi đầu hàng vô điều kiện.
Cuối cùng, tiệc cưới cũng tan, tôi ra về trong lòng phấn khởi. Mệt, nhưng vui, có nhiều điều thú vị, đầu tiên là việc đi tìm nhà hàng, kế sau là phải trả tiền trước khi lọt vào bên trong, làm như vậy lại chắc ăn, khỏi sợ tên nào đi ăn khín giống bên Việt Nam. Ở Việt Nam có loại người chuyên đi ăn cưới khín, họ mặc đồ rất lịch sự y như người đi dự đám cưới thật, họ trà trộn vào dòng người đi dự tiệc cưới, tới nhà hàng ăn uống thoải mái, miễn phí, bên đằng gái thì tưởng khách của đàng trai, còn bên đàng trai thì tưởng khách bên đàng gái, thế là huề.
Người Nhật thường tổ chức lễ cưới theo nghi thức Thần Đạo, cô dâu chú rể mặc đồ kimono, nhưng cũng có rất nhiều người tổ chức lễ cưới theo nghi thức Thiên Chúa Giáo mặc dù họ không theo đạo nào cả. Thường thì đầu năm mới, hay cưới hỏi, họ theo nghi lễ của Thần Đạo. Nhưng khi tang chay thì họ lại về với đạo Phật.
Đám tang cũng vậy, người Nhật đi dự đám tang đều mặc đồ đen và rất kín đáo, đàn bà thường đeo chuỗi ngọc trai, đàn ông mặc đồ vest. Đi dự đám tang họ mang theo tiền phúng điếu, đựng trong một bao thơ đặc biệt. Người Nhật, họ rất trọng hình thức, đám cưới, đám ma, thăm bệnh, tặng quà, tặng tiền lì xì đều có những bao thơ riêng biệt, khác nhau, không phải như bên Việt Nam, đựng trong bao thơ nào cũng được. Sau khi tang lễ tan, ra về họ cũng được nhận một túi quà, thường là khăn mặt, trà xanh hoặc nori (rong biển khô). Nếu bạn đi thăm người bệnh trong nhà thương, bạn có thể tặng tiền mặt cho người bệnh, và bao thơ đựng tiền cũng khác hẳn. Sau khi người bệnh khỏe mạnh trở về nhà, họ sẽ mua một món quà giá trị tương đương để tặng lại cho mình, giống như đi trả nợ. Đó là phong tục của người Nhật. Về tiền lì xì, chỉ có người trong gia đình mới tặng nhau tiền lì xì, ông bà, cha mẹ, cô cậu... tặng lì lì cho con cháu. Người Nhật không có tục lệ tặng lì xì cho bạn bè, hàng xóm. Tiền lì xì cũng tuỳ người tuỳ lứa tuổi, lớn như như tôi thường được nhận 30.000 yên hoặc 40.000 yên, cỡ tuổi học sinh trung học khoảng 10.000 yên, học sinh tiểu học khoảng 5.000 yên và những đứa trẻ nhỏ thì 3000 yên Trở về nhà, mẹ chồng tôi mở hộp thơ ngay đầu cổng, cầm một mớ thiệp xuân mang vào bên trong, mẹ tôi lật đi lật lại xem, tôi cũng ghé mắt nhìn ké, những tấm thiệp xuân đều được in hình mấy chú chó dễ thương. Người Nhật không có tục lệ thăm viếng nhau vào ngày tết, nếu thân quen, họ chỉ gửi thiệp chúc mừng. Sáu năm nay tôi về ăn tết ở quê nhà, nhưng hầu như không gặp bất cứ một ai đến chúc tết như bên Việt Nam mình, kể cả bà con giòng họ.
Buổi tối hôm đó, mẹ tôi không vào phòng riêng đóng cửa nghe nhạc Hàn Quốc như mọi bữa, bà ngồi ngay bàn ăn, nói chuyện với vợ chồng tôi. Tôi kể chuyện cho bà nghe về quê hương tôi, về miền Bắc xa xôi ấy. Lúc này bà mới biết tôi sinh ra ở miền Bắc theo Liên Sô chứ không phải ở Sài Gòn theo Mỹ. Bà bảo miền Bắc nghèo lắm, Hồ Chí Minh không tốt, là người xấu... Tôi nghe bà nói vậy, liếc mắt qua phía bên chồng mình hỏi:
- Sao mẹ biết ông Hồ không tốt, ông Hồ là người xấu? Anh lại đầu độc bà chứ gì.
- Không...em làm như mẹ khờ lắm ấy, tuy rằng mẹ ở nhà quê nhưng mẹ vẫn nghe tin tức trên radio hay tivi mỗi ngày.
Bố tôi nằm bên cạnh ngủ ngon lành, sau khi nhõng nhẽo, mè nheo đủ thứ với bà vợ mình. Mẹ tôi phải hầu hạ ông mỗi ngày, cơm bưng nướt rót, chăm sóc còn hơn em bé. Tôi nhìn ngao ngán dứ tay về phía chồng:
- Mai này anh bằng tuổi bố mà nhõng nhẽo như bố là em bỏ luôn đó! Nói trước rồi đó nghen.
Chiều hôm sau, vợ chồng tôi từ giã bố mẹ lên đường trở lại Tokyo, mẹ chồng tôi đưa tiễn ra tận cổng, chiếc xe lăn bánh khá xa mà bà vẫn đứng đó vẫy tay theo, bóng bà mất dạng khi xe quẹo sang hướng khác. Tôi ước gì căn nhà này ở tại Tokyo, vợ chồng tôi sẽ dọn về sống chung với bố mẹ, để được hầu hạ ông bà trong tuổi xế chiều.
Tokyo 7/2/06.
Lê Mỹ Hân

Monday, May 21, 2007

Tìm trong nỗi nhớ - Chương kết

Dự định về Hà Nội chơi vào dịp Tết của Lan Chi hóa ra không thể thực hiện được. Tết âm lịch năm nay không trùng vào kỳ nghỉ nào ở Pháp, đã thế Julie lại còn đang rập rình chuẩn bị nghỉ đẻ. Chủ cửa hàng lo kiếm người bán hàng thay Julie đã khó nên không muốn cho Lan Chi nghỉ phép mấy tuần liền vào dịp đó.
Sau khi Lan Chi bàn đi tính lại với Trung, cuối cùng hai vợ chồng bèn quyết định sẽ tận dụng kỳ nghỉ Noel để về nước. Lan Chi hơi thất vọng: đã mười một năm rồi cô không được ăn Tết ở Việt Nam. Từ mấy tháng nay, cô đã khấp khởi mừng thầm khi nghĩ đến chuyện sẽ được “hắt hủi” bánh chưng bọc giấy nylon một năm để về đắm mình trong không khí Tết rất đặc biệt, rất thân thương của Hà Nội. Lập tức nghĩ ngay đến những món ngon sẽ được ăn vào dịp Tết và thấy thèm thuồng luôn cả những “miếng ngon Hà Nội ” khác, những “miếng ngon” quanh năm chứ không phải chỉ vào dịp Tết mà thôi. Lan Chi phải tự thừa nhận rằng nỗi nhớ quê hương của mình có tính ẩm thực hơi cao: bao giờ cũng vậy, cứ nghĩ đến chuyện về thăm quê là trong đầu cô lại hiện lên ngay một danh sách dài những món nhất thiết phải ăn cho bõ. Các loại phở, các loại bún, các loại xôi, rồi miến lươn, chả cá, bánh cuốn, ốc luộc, rồi cá rô phi nấu canh rau cải, cà pháo, cải cúc, rau ngót, rau cần..., món ngoài hàng, món gia đình, món ngồi trong tiệm, món lê la với chiếc ghế đẩu trên hè phố, tất cả, không phân biệt đẳng cấp, chen nhau đổ xô vào những dự tính của Lan Chi một cách lộn xộn và đầy háo hức.
Thực ra, gần như hầu hết các món ăn này Lan Chi đều có thể ăn hoặc mua trong các nhà hàng và các khu chợ châu Á ở Pháp, nhưng với món nào cũng vậy, sau khi thử một vài lần, bao giờ cô cũng có cảm giác như bị đánh lừa, luôn luôn thấy một cái gì đó thiếu thiếu, một cái gì đó không giống, và đành tự nhủ: “Thôi, đợi đến khi nào về Hà Nội...” “Đợi đến khi nào về Hà Nội...” đã trở thành điệp khúc láy đi láy lại trong đầu Lan Chi đến gần một chục năm nay. Đã phải trì hoãn một lần vào dịp Tết năm trước do bà cô vào Vũng Tàu chăm con gái đẻ, và nhất là giờ đây lại có lời hẹn hò với Kiên (mà cô thấy là hoàn toàn không cần thiết phải tiết lộ với chồng), Lan Chi dứt khoát không muốn đẩy lùi chuyến về thăm quê thêm một thời gian nữa. Đối với Trung, sau nhiều năm liên tục trực bệnh viện vào kỳ nghỉ Noel, xin nghỉ phép vào dịp này năm nay là một vấn đề không có gì trắc trở. Thôi thì cả nhà kéo nhau đi trốn gà tây rôti một năm, cũng hay!
Vấn đề “về Hà Nội trước hay về Sài Gòn trước” thoạt đầu có gây ra một bất đồng nho nhỏ, nhưng rồi cũng được giải quyết ổn thỏa một cách khá nhanh chóng nhờ tinh thần “kính vợ sống lâu” của Trung. Trước hay sau thì cũng chỉ ít ngày, đã chờ được hàng chục năm rồi thì đợi thêm vài ngày nữa cũng có sao, tội gì tổn hại thần kinh để tranh hơn với vợ. Gì chứ kinh nghiệm về “gái Hà Nội” thì Trung có thừa: từ lâu anh đã rút ra được bài học quý báu rằng khôn ngoan nhất là đầu hàng ngay ở giai đoạn “dịu dàng quá dịu dàng không chịu nổi”, chứ lại cứ tưởng mình có lý mà dám cầm cự lâu hơn thì sẽ được biết thế nào là “nhức đầu quá, nhức đầu không chịu thấu”.
Vậy là kế hoạch đã được nhất trí thông qua: đầu tiên cả nhà sẽ đi máy bay từ Paris về Hà Nội, ở lại chơi quãng mười ngày tại đó rồi sẽ vào Sài Gòn. Lan Chi chợt bắt gặp mình có một thoáng lo âu khi nghĩ đến cuộc hội ngộ (chắc là không tránh khỏi) của Trung với người yêu cũ. Nhưng cô kiên quyết gạt phắt cái “tư tưởng lệch lạc” đó ra khỏi đầu bằng cách hướng những suy tư của mình vào niềm vui được trở về quê hương, được gặp lại những người thân thiết. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, một ý nghĩ khác cũng không được lành mạnh cho lắm bèn lập tức nảy sinh: Lan Chi cảm thấy hơi bị hẫng khi hình dung cuộc gặp gỡ sắp tới với Kiên ở Hà Nội sẽ không chỉ là “mặt đối mặt” như hồi ở Berlin, mà sẽ diễn ra trong niềm vui gượng gạo và hẳn là có nhiều phần khách khí, với vợ Kiên bên cạnh anh, và Trung bên cạnh cô. “Thế là phải rồi. Mình còn đợi chờ gì nữa?”, cô tự nhủ, thấy khó chịu với chính mình.
Tháng mười một trôi qua trong nhịp điệu dồn dập của những cú điện thoại gọi đi khắp nơi để hỏi kinh nghiệm mua quà về nước. Càng lắm ý kiến cố vấn thì lại càng hoang mang. Quân sư này vừa khuyên mua một mặt hàng thì quân sư khác lại gạt phắt đi: “Mua làm gì thứ ấy, trong nước nhiều ê hề, bán đầy đường đầy chợ mà lại rẻ”. Ngay xưa đi tây mang về thứ gì cũng quý, bây giờ lại chỉ sợ mua nhầm phải loại quà quá tầm thường thì thành ra vô duyên. Lâu lắm rồi không về nước, Lan Chi không ngờ hóa ra cái sự chọn mua quà lại đau đầu nát óc đến thế này.
Đầu tháng mười hai, Lan Chi bắt đầu vác vali ra để thử xếp vào một lô hàng tạp hóa: đồ mỹ phẩm cho bạn gái, rượu cho giới đàn ông, quần áo đồ chơi cho trẻ con, sôcôla cho các đối tượng không phân biệt tuổi tác và giới tính..., lèn hết sức khéo thì cũng đã gần đầy một vali. Ngắm nghía kho hàng của mình, cô mỉm cười vì bất giác nhớ lại cái vali của ngày lên đường đi học ở Nga. Đang hài lòng vì việc chuẩn bị quà cáp như vậy là đã tạm ổn thì đột nhiên Hạnh gọi điện từ Paris xuống hốt hoảng báo tin vừa phải đưa mẹ vào bệnh viện cấp cứu. Trung hớt hải đi máy bay ngay lên Paris. Vài ngày sau, anh trở về, rầu rĩ bảo vợ rằng có lẽ dịp Noel này anh không thể đi đâu chơi xa được, chuyến về nước chắc đành phải hoãn lại thôi. Mẹ Trung bị chảy máu dạ dày, cơn nguy kịch qua rồi nhưng tuổi đã cao, sức vốn yếu, lại mất máu nhiều nên cụ hãy còn mệt lắm, chắc sẽ phải nằm viện lâu để theo dõi biến chứng. Tình hình như vậy thì làm sao Trung dám rời khỏi Pháp lúc này, để một mình Hạnh với mẹ được. Nhìn vẻ mặt tràn trề thất vọng của Lan Chi, Trung vội bảo ngay rằng anh thấy cô không cần thiết phải hủy chuyến đi này: một mình anh ở lại đây là đã đủ, vé máy bay đã đặt, quà cáp đã mua, lại có bà cô già yếu đang chờ đợi ở nhà, Lan Chi cứ mang lũ trẻ về Hà Nội chơi ít ngày, còn anh thì đành lui lại đến một dịp khác vậy.
Không có chồng đi cùng, niềm vui về thăm quê của Lan Chi giảm đi đến một nửa. Từ trước đến nay, khi nghĩ về chuyến đi này, bao giờ cô cũng hình dung có Trung bên cạnh. Ước muốn giới thiệu Trung với họ hàng bạn bè và khoe Hà Nội của mình với chồng vậy là tan thành mây khói. Tuy vậy, Lan Chi hiểu rằng cô không thể trì hoãn chuyến đi này được nữa. Bà cô ruột của Lan Chi năm nay đột nhiên yếu đi nhiều, tuổi già mong manh, nếu cô cứ lần chần mãi không về thăm thì có khi sẽ không còn kịp gặp. Và lại còn lời hứa với Kiên...
Máy bay về đến Nội Bài vào quãng tám giờ sáng. Lấy đồ đạc xong, Lan Chi hì hụi đi ra cửa với chiếc xe đẩy ì ạch, đã nặng vì hai cái vali to đùng lại còn có thêm Việt Anh và Lan Anh - mặt mũi bơ phờ sau chuyến bay dài - ngồi chễm trệ phía trên. Cu Nam lẽo đẽo đi bên cạnh mẹ, hỏi một cách sốt ruột: “Đây là Hà Nội hả mẹ?” “Đây là sân bay Nội Bài. Chúng mình còn phải đi ôtô thêm một đoạn nữa thì mới về đến Hà Nội”, Lan Chi đáp.
Ra khỏi cửa kiểm tra của hải quan, Lan Chi nghe thấy có tiếng gọi tên mình. Ngơ ngác một lúc cô mới nhìn ra Vũ, cậu em họ con bà cô, đang vẫy tay rối rít phía sau hàng rào sắt. “Trông chị chả khác tí nào, em nhận ra ngay lập tức”, Vũ vừa đỡ vali cho Lan Chi vừa nói.
Hà Nội thì khác đi nhiều. Ngồi trên taxi dọc đường từ sân bay về nhà bà cô, Lan Chi ngỡ ngàng nhìn khung cảnh hai bên đường nửa quen nửa lạ. Nhà mới xây mọc khắp nơi, nhất là ở những chỗ ngày xưa là đồng không mông quạnh, rất nhiều kiểu lạ mắt, nhưng Lan Chi không ngạc nhiên lắm vì đã được nghe nói từ trước khá nhiều rồi. Đôi khi, gặp một kiểu nhà kỳ quái, cô mỉm cười tự hỏi không biết đây có phải là sản phẩm của trí tưởng tượng “siêu thực” của Kiên không, rồi lại tự gạt phắt đi ngay: “Kiên “siêu thực” thì có, nhưng không đời nào lại kệch cỡm thế này.” Cảm giác lạ lẫm nhất không phải là nhà mà là người. Chẳng hiểu người ở đâu đổ ra mà đông như kiến thế không biết? Ở Pháp, rất ít khi Lan Chi nhìn thấy người đi ngoài đường đông nghìn nghịt đến mức độ này. Cô có cảm tưởng như cả Hà Nội ồ ạt kéo nhau xuống đường biểu diễn xe máy. Ngày cô ra đi, hình như thành phố chưa chen chúc toàn người là người như vậy. Ít nhất, khung cảnh rất ấn tượng này đã không hề được lưu giữ trong ký ức của cô. “Đông người quá!”, Lan Chi buột miệng thốt lên. “Nhiều xe máy quá!”, cu Nam hớn hở nói. Mắt thằng bé sáng rực lên đầy vẻ tò mò trước những quang cảnh lạ. Ngắm xe máy chán, nó bèn quay ra say sưa đọc bất cứ hàng chữ tiếng Việt nào lọt vào mắt, từ tên phố, tên cửa hàng đến nội dung của các tấm biển quảng cáo. Cu cậu được mẹ dạy đọc tiếng Việt ở nhà từ bé, nhưng đây là lần đầu tiên được ứng dụng vào cuộc sống nên có vẻ rất thích thú. “Sans souci!”, cu Nam chợt reo lên khi nhìn thấy hàng chữ in trên một chiếc xích lô lướt qua trước mặt. Rồi nó quay sang hỏi mẹ: “Tiếng Việt cũng có sans souci như tiếng Pháp hả mẹ?” “Không, đó là tiếng Pháp hoàn toàn đấy chứ”, Lan Chi mỉm cười, đáp. “Hà Nội cũng nói tiếng Pháp”, thằng bé nhận xét với vẻ hơi ngạc nhiên.
Bà cô đón cháu bằng món bún chả yêu thích của Lan Chi. “Buổi trưa ăn tạm thế này cho gọn nhẹ, đến tối cô sẽ làm bữa cơm đàng hoàng”, bà nói. “Ô, bún chả thì cháu ăn mấy bữa liền cũng chẳng chán, việc gì phải làm cơm nữa hả cô”, Lan Chi vừa đáp vừa hân hoan hít mùi chả nướng quyến rũ rất quen thuộc.
Bốn mẹ con xà vào ăn ngay với một vẻ ngon miệng không khách khí. Đây là lần đầu tiên lũ trẻ được thưởng thức loại bún tươi mà mẹ chúng luôn luôn quảng cáo kèm theo câu “bao giờ về Hà Nội...”, mỗi lần làm bún khô cho cả nhà ăn. “Thịt nướng này ngon hơn thịt barbecue mẹ nhỉ”, cu Nam nhận xét. “Tất nhiên rồi”, Lan Chi trả lời với một vẻ tự hào. Tuy vậy, cô cảm thấy trong lòng hơi phân vân: món bún chả này công nhận ngon thật là ngon, nhưng hình như có cái gì đó chưa thật giống hoàn toàn loại bún chả ngày xưa cô thường ăn. Không giống cái gì thì cô chịu không phân tích nổi. Nhưng có lẽ đây không hẳn là món bún chả vẫn hiện về trong nỗi nhớ của cô. “Nếu có thời gian thì lúc nào mình phải dẫn bọn trẻ con ra ăn bún chả hàng bà Thịnh mới được”, Lan Chi thầm nghĩ với hy vọng tìm lại được hương vị cũ trong hàng bún yêu thích ngày xưa của mình.
Ngày thứ hai ở Hà Nội, Lan Chi bắt đầu lên kế hoạch đi thăm họ hàng, bạn bè. Tất nhiên, tên Kiên hiện lên đầu tiên trong danh sách của cô. Khi chuẩn bị về nước, cô đã không gọi điện thoại cho Kiên đi đón như anh yêu cầu. Lý do rất đơn giản: cô cảm thấy khó coi đối với cả bà cô của mình lẫn gia đình Kiên, nếu cô về thăm nước sau gần chục năm trời lại chọn đúng Kiên để nhờ ra đón. Thêm nữa, cô cũng muốn dành cho anh một sự bất ngờ vì đã về sớm hơn lời hẹn.
Với tâm trạng có phần hồi hộp, Lan Chi lấy từ trong ví ra tấm các mà Kiên đưa cho hồi ở Berlin và bấm máy gọi điện thoại cho anh. Cô gọi theo số máy cơ quan anh, vì bây giờ đang là giờ làm việc. Vả lại, chưa biết vợ Kiên “độ lượng” thế nào, cứ gọi đến cơ quan là chắc nhất.
Chuông điện thoại reo mãi mà không có ai nhấc máy. “Chắc Kiên chạy đi đâu đó”, Lan Chi nghĩ và quay sang gọi điện thoại cho mấy người bạn khác. Sau khi đã hẹn hò đến chơi được với mấy cô bạn cũ rồi, cô bèn gọi điện thoại lại cho Kiên. Vẫn không có ai trả lời. Gọi thêm vài lần buổi sáng, rồi vài lần buổi chiều nữa vẫn không được, Lan Chi bắt đầu lo. “Nhỡ Kiên lại đi công tác xa đúng vào dịp này thì phiền quá. Mình ẩu thật đấy, đáng lẽ phải gọi điện hẹn trước với anh ấy từ khi ở Pháp”, cô tự trách mình.
Không còn cách nào khác, sau giờ làm việc buổi chiều, Lan Chi đành gọi điện thoại đến nhà Kiên. Đúng như cô lo ngại, người nhấc máy trả lời là phụ nữ. Một giọng nữ trong trẻo và khá trẻ trung.
- Chào chị, đây có phải là nhà anh Kiên không ạ? – Lan Chi rụt rè hỏi.
- Vâng, tôi là vợ anh Kiên đây. Chị cần hỏi gì ạ? - vợ Kiên đáp lại khá nhã nhặn.
- Anh Kiên có nhà không hả chị? Tôi có thể nói chuyện với anh ấy được không?
- Chị là ai nhỉ mà tôi không nhận ra? - giọng nói của vợ Kiên đã bớt nhã nhặn đi một chút.
- Tôi tên là Chi, - Lan Chi trả lời một cách có tính toán, tự xưng tên mình ngắn gọn chứ không xưng “Lan Chi” đầy đủ như cách Kiên vẫn quen gọi, cách mà bạn bè ở Nga vẫn thường gọi để phân biệt cô với cô bạn Kim Chi cùng trường.
- Chị gọi cho anh Kiên về chuyện công việc phải không? - cuộc thẩm vấn vẫn tiếp tục.
- Không, tôi là bạn cũ, gọi điện hỏi thăm chút thôi, - Lan Chi không muốn nói dối, tuy biết rằng danh xưng “bạn cũ” khó mà gây nổi thiện cảm ở vợ Kiên.
- Bạn cũ à? Thế chị ở đâu vậy?
- Tôi đang ở Hà Nội, - Lan Chi đáp một cách lấp lửng. Cô đã bắt đầu mệt mỏi và hơi khó chịu vì cuộc thẩm vấn này thì nghe có tiếng đàn ông nói loáng thoáng xa xăm gì đó, rồi vợ Kiên nói vào điện thoại:
- Đây, anh Kiên ra rồi đây. Chị nói chuyện với anh ấy nhé.
- Alô, ai đấy? - giọng Kiên vang lên trong máy điện thoại.
- Lan Chi đây, anh Kiên. Em vừa mới về Hà Nội, - Lan Chi nhẹ nhàng nói, cảm thấy thần kinh như dịu hẳn đi.
- Em về Hà Nội từ lúc nào? Sao không gọi điện cho anh ra đón? Em đang ở đâu đấy? – Kiên hỏi dồn dập bằng một giọng mừng rỡ không che đậy.
- Em vừa về hôm qua thôi, hiện em đang ở nhà bà cô của em. Em muốn đến thăm vợ chồng anh và thằng cu, tiện thể chiêm ngưỡng cái nhà vĩ đại của anh một tí, mà không biết đến lúc nào thì tiện nhỉ?
- Em đến chơi ngay tối nay có được không? Đối với anh thì lúc nào cũng tiện cả.
- Tối nay em đã hẹn đến nhà bà bác rồi. Thôi để ngày mai vậy nhé. Mai em đến quãng sáu giờ chiều có được không? Trước đó, em lại có hẹn với mấy đứa bạn cũ.
- Hay là mai anh mời vợ chồng em đi ăn tối luôn thể? Anh sẽ chọn một nhà hàng nào ăn được...- Kiên đề nghị.
- Thôi, chuyện ăn uống để sau. Mai em đến nhà anh rồi có gì sẽ bàn thêm, - Lan Chi gạt đi. Chẳng hiểu sao, cô chưa muốn nói lộ ra ngay là Trung không về nước cùng cô lần này.
Hôm sau là một ngày vô cùng bận rộn của bốn mẹ con Lan Chi. Buổi sáng, cả mẹ lẫn con đều chưa quen được giờ giấc nên ngủ quên trong giường đến gần mười giờ sáng mới bừng tỉnh dậy. Bà cô đã mua sẵn xôi xéo ngoài hàng về theo đúng “đơn đặt hàng” của Lan Chi từ tối hôm trước.
Lâu lắm rồi mới được ăn món ăn bình dân mà cô rất thích này để tạm quên đi bánh mỳ-bơ-xúc xích-cà phê đơn điệu lặp đi lặp lại sáng sáng, đã thế lại được bà cô xăng xái phục vụ cả mấy mẹ con đến tận miệng rồi âu yếm đứng loanh quanh nói chuyện rất rôm rả, Lan Chi chỉ muốn kéo thật dài bữa ăn sáng ra để tận hưởng cái cảm giác hạnh phúc như được trở về quá khứ ấy. Nhưng nhìn đồng hồ thấy đã gần mười rưỡi, cô không dám ngồi lâu thêm nữa mà vội giục giã mấy đứa con chuẩn bị nhanh nhẹn lên để còn đi chơi. Cô đã hẹn mang con đến chơi nhà ông chú em ruột bố sáng nay và ở lại ăn trưa tại đó.
Nhà ông chú thì xa, bầu đoàn của Lan Chi thì một đám lít nhít, chẳng có cách di chuyển nào tiện hơn là gọi taxi. Sau chừng nửa tiếng luồn lách qua những đường phố nườm nượp xe máy mà có nhiều chỗ Lan Chi không thể nhớ ra được là phố gì, cuối cùng taxi dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng có mái cong cong na ná giống như một ngôi chùa Thái Lan. Nếu không nhìn thấy ông chú đứng đợi sẵn với nụ cười rất tươi trước cổng “chùa” thì Lan Chi không dám tin ngay là đã đến đúng nhà. Nhà này, nghe nói ông chú mới mua được cách đây vài năm. Trước đây, hồi Lan Chi còn ở Hà Nội, gia đình ông sống trong một căn hộ tập thể hai phòng.
Sau bữa trưa, nấn ná ngồi lại chơi đến quãng gần ba giờ chiều thì Lan Chi xin phép ông chú đưa lũ con ra về để đến thăm một cô bạn như hẹn trước. Nhà cô bạn ở tít đầu kia của thành phố nên Lan Chi lại gọi taxi. Hơn nửa tiếng lòng vòng, rồi xe lại dừng trước một biệt thự mới tinh. Lần này không phải chùa, cũng không khiêm tốn hai tầng như nhà ông chú, mà là hẳn một “lâu đài” ba tầng khá to, kiến trúc củ hành. “Chắc là để tưởng nhớ đến nước Nga”, Lan Chi thầm nghĩ khi ngắm nghía ngôi nhà của bạn ( cả hai vợ chồng cô bạn của Lan Chi đều học ở Nga về).
Tuyết, bạn của Lan Chi, ra mở cổng trong bộ quần áo mặc nhà nhưng diêm dúa như chuẩn bị đi dạ hội. Tay bắt mặt mừng xong, cả hai rối rít khen lẫn nhau “trẻ” và “xinh ra”, rồi câu chuyện tiếp tục phát triển theo hướng tất yếu là ôn lại quá khứ và nhắc đến đám bạn cũ. Điểm qua được một vài người bạn xong thì Tuyết bèn hỏi Lan Chi đã đến thăm Kiên chưa?
- Chưa, nhưng tao đã hẹn tí nữa sẽ đến, - Lan Chi bình thản trả lời.
- Chuyện của Kiên kể ra cũng buồn nhỉ, - Tuyết nói với vẻ đầy thông cảm và bí ẩn.
- Chuyện gì mà buồn? - Lan Chi sửng sốt hỏi.
- Ơ, thế mày chưa biết à? - Tuyết ngạc nhiên hỏi lại.
- Tao chẳng biết gì hết cả, - Lan Chi lo ngại đáp.
- Tao cứ tưởng mày biết rồi, vì bạn bè Kiên ở Hà Nội ai cũng biết. Công ty của Kiên đang phải đóng cửa ngừng hoạt động để thanh tra. Nghe nói có chuyện làm ăn phi pháp gì đó, - Tuyết nói.
- Kiên... làm ăn phi pháp à? – Lan Chi ngơ ngẩn hỏi.
- Hình như làm trực tiếp vụ này thì không phải là Kiên, mà là thằng phó giám đốc. Thấy bảo tay này nhân lúc Kiên đi Đức có làm một phi vụ gì đó với danh nghĩa công ty sau lưng Kiên, bây giờ mới bị khui ra, người ta bèn thanh tra lại toàn bộ hoạt động của công ty. Kiên là giám đốc tất nhiên cũng phải chịu trách nhiệm. Nói chung làm ăn ở nhà mình thời buổi này chóng mặt lắm Lan Chi ạ, phát tài cũng dễ mà đổ bể cũng nhanh, chẳng biết thế nào mà lường trước được.
“Ra thế... Công ty đóng cửa ngừng hoạt động, thảo nào mà mình gọi điện thoại đến đó không có ai trả lời”, Lan Chi thầm nghĩ. Lòng cô bỗng trào lên một nỗi xót xa cho Kiên. Sao số anh vất vả thế không biết. Cứ tưởng đã đến lúc sung sướng rồi thì lại gặp chuyện.
Câu chuyện tự nhiên trở nên rời rạc hẳn vì Lan Chi không còn đầu óc đâu để tán chuyện. Cô muốn đứng dậy ra về ngay nhưng cố nán ngồi lại vì nể bạn, lại vì anh em cu Nam vẫn còn thích ở lại chơi với con của Tuyết (chạy lên chạy xuống thám hiểm khắp ba tầng gác của “lâu đài” đối với bọn trẻ cũng là một thú vui). Đến quãng bốn giờ rưỡi thì Việt Anh và Lan Anh đã thấm mệt, Lan Chi thấy có cớ để ra về một cách vui vẻ. Cô liền nhờ Tuyết gọi điện thoại cho taxi đến đón mấy mẹ con. Chui vào taxi lần thứ ba trong ngày, cu Nam bèn đưa ra một nhận định rất chắc chắn: “Hà Nội toàn đi taxi”.
Năm giờ chiều, về đến nhà bà cô, Việt Anh và Lan Anh lăn ra ngủ ngay lập tức. Nghỉ ngơi được một lúc, Lan Chi nhìn đồng hồ, thấy là đã đến giờ đi đến nhà Kiên. Cô quyết định để hai bé sinh đôi ở lại nhà gửi bà cô trông, vì biết nhất định là chúng còn ngủ lâu: chúng chưa quen giờ giấc, ngủ nghê hết sức linh tinh, lại đi chơi cả ngày mệt lử thế này thì súng nổ bên tai chắc cũng không buồn dậy. Thấy cu Nam vẫn còn hoạt bát, Lan Chi bèn rủ: “Đi chơi với mẹ không con?” “Đi đâu hả mẹ?”, thằng bé hỏi lại. “Đi đến nhà một bác bạn mẹ”, Lan Chi trả lời. “Lại đi taxi, con chán rồi”, cu Nam nói với vẻ rất thiếu nhiệt tình. “Không đi taxi đâu, nhà bác này gần, mẹ đèo con đi xe đạp”, Lan Chi cố nài. Nghĩ đến cuộc thẩm vấn hôm qua của vợ Kiên, rồi lại liên tưởng đến câu chuyện về “vợ độ lượng” của Quân, cô thấy đi một mình đến nhà Kiên có lẽ là hơi nguy hiểm. Tốt nhất là mang cu Nam đi làm bình phong “chắn đạn” cho mẹ. Nghe nói được đi xe đạp, Nam bèn đồng ý đi theo.
Rất may, nhà Kiên không xa nhà bà cô của Lan Chi thật. Lan Chi bèn mượn bà cô cái xe đạp và đèo con trai đi. Mất khoảng hai mươi phút đi đường, rồi tìm nhà loanh quanh chừng năm phút nữa thì hai mẹ con đến được địa chỉ cần tìm. Một ngôi nhà ba tầng, to hơn nhà ông chú của Lan Chi nhưng nhỏ hơn nhà của Tuyết. Không mái cong, không củ hành. Kiểu nhà khá giản dị, không hề kệch cỡm nhưng cũng không có gì chứng tỏ đó là nhà của một kiến trúc sư có tính nghệ sĩ như Kiên.
Kiên ra mở cửa ngay khi Lan Chi vừa ấn nút chuông, cứ như là anh đã đứng chờ sẵn đó.
- Con trai đây phải không? Lớn quá nhỉ. Mà bố nó và hai đứa nữa đâu mà chỉ có hai mẹ con thế này? - Kiên cười rất tươi, nhìn cu Nam rồi quay sang Lan Chi, hỏi.
- Mẹ chồng em ốm nên chồng em không về lần này được. Hai đứa bé thì đi chơi cả ngày mệt rồi, em để cho chúng nó ngủ ở nhà bà cô em, - Lan Chi vừa trả lời xong thì nhìn thấy vợ Kiên bước ra.
Đó là một cô gái khá xinh, trông không quá ba mươi tuổi, mặc diện một cách rất có “gu”, duyên dáng dễ thương hơn nhiều so với cái hình ảnh mà Lan Chi hình dung khi nói chuyện qua điện thoại.
- Chào chị, - vợ Kiên nói với nụ cười vồn vã, trái hẳn với sự lo ngại trước đó của Lan Chi.
Lan Chi mỉm cười chào lại.
Kiên giới thiệu hai người với nhau:
- Đây là Thi, còn đây là Lan Chi, mới từ Pháp về chơi, - anh nói ngắn gọn, không giải thích quan hệ của mình với hai người, dường như cho rằng cả hai đều đã tự hiểu.
- Chị là chị Lan Chi à? - vợ Kiên reo lên vui vẻ. - Chị là bạn của anh Kiên từ hồi ở Nga phải không? Em đã nghe anh Kiên nhắc đến chị và một vài người nữa. Nghe tên chị là em nhớ ra ngay. Tại vì anh Kiên hay kể cho em nghe chuyện các anh chị hồi ở Nga lắm, nhiều chuyện rất là vui, - Thi nói và bật cười một cách hồn nhiên.
“Không biết Kiên kể cho vợ nghe những chuyện gì mà vui thế nhỉ?”, Lan Chi băn khoăn nghĩ. Thái độ thân thiện vui vẻ của vợ Kiên làm cô hơi bối rối. Cô đã chuẩn bị tinh thần để đối phó với một sự đón tiếp lạnh nhạt và xét nét, cho nên hoàn toàn bất ngờ trước tiếng cười thoải mái như vậy.
Thi quay sang cu Nam, nắc nỏm khen thằng bé xinh quá, trông cứ như con tây. Lan Chi bèn hỏi thăm thằng con trai của Thi. “Nó đang ngồi chơi với thằng anh họ con bà chị em ở trên gác, để em lên đem nó xuống chào bác”, Thi nói và đi lên cầu thang.
Ngồi lại với Kiên và cu Nam trong phòng khách sang trọng, rộng rãi của nhà Kiên, Lan Chi tự nhiên có cảm giác gượng gạo và xa lạ. Với dáng điệu có vẻ hơi ngượng ngập, khác hẳn hồi ở Berlin, Kiên định pha nước mời Lan Chi. “Thôi, em không khát đâu, anh khỏi phải pha nước”, Lan Chi nói bằng một giọng khá là khách khí.
Kiên bảo anh cứ tưởng Lan Chi đến Tết ta mới về Hà Nội chơi, không ngờ cô lại về sớm thế này. Lan Chi giải thích một cách ngắn gọn lý do khiến cô không thể về Tết được. Kiên lại hỏi cô về chơi bao lâu. “Nửa tháng thôi”, Lan Chi đáp. “Sao em về ít thế?”, Kiên khẽ kêu lên. “Đợt này em không xin nghỉ nhiều hơn được. Với lại, bọn trẻ con cũng phải về đi học nữa”, Lan Chi nói Cả hai người đang lúng túng chưa biết nói gì thêm thì vợ Kiên dắt con trai từ trên gác xuống. Lan Chi vội lấy quà đưa cho thằng bé và đưa luôn quà cho vợ chồng Kiên, rồi cô khen lấy khen để “con trai xinh quá” với một vẻ nhiệt tình ngang với vợ Kiên lúc trước. “Chị thấy nó có giống anh Kiên không?”, Thi hỏi. “Có lẽ giống cả bố lẫn mẹ”, Lan Chi vừa do dự trả lời vừa nhận xét thầm trong đầu rằng thằng bé quả thật là rất xinh, nhưng không có được cặp mắt và nụ cười của bố nó. “Nó giống mẹ là chính”, cô nghĩ. Dường như đọc được ý nghĩ của Lan Chi, Thi bảo: “Nó có cái trán giống hệt anh Kiên, chị thấy không? Cả ngón tay nó cũng là của anh ấy, ngón dài thế này thì cho đi học đàn piano được đấy chị Lan Chi nhỉ”, cô nói và kéo bàn tay của con trai ra trước mặt Lan Chi để mời xem. “Ừ, ngón tay dài đẹp thật”, Lan Chi công nhận rồi mỉm cười nhìn Kiên. Anh cũng mỉm cười, không nói gì.
- Chết thật, anh ơi, sao anh không đem gì ra mời chị và cháu thế này? Khách ở nước ngoài về mà anh lại tiếp thế này thì chán quá anh ạ - vợ Kiên chợt kêu lên.
Mặc cho Lan Chi từ chối với lý do “chỉ ngồi một tí rồi phải về ngay”, Thi nhất quyết đi pha nước và bê ra một lô bánh kẹo, hoa quả, ép mẹ con Lan Chi ăn bằng được.
Tranh thủ lúc nhấm nháp một miếng bánh, Lan Chi bèn kín đáo quan sát vợ Kiên. Phải công nhận rằng Thi có một vẻ đẹp rất hiện đại, trước hết là ở thân hình cao ráo, đầy đặn khỏe mạnh nhưng chưa đến mức béo, càng không “còi cọc” như thế hệ sinh ra trong chiến tranh của Lan Chi. Cô lăng xăng đi lại trong nhà, cười nói với dáng điệu rất nhanh nhẹn, hoạt bát, tự tin, cặp mắt đen sắc sảo có vẻ như không để lọt cái gì ra khỏi tầm nhìn, tóm lại, thoạt trông đã có thể thấy ngay rằng đây là loại người cực kỳ tháo vát trong cuộc sống. “Gu của Kiên đã thay đổi”, Lan Chi nghĩ. Cô buồn bã nhớ lại rằng ngày xưa Kiên mê nhất là đôi mắt mơ mộng của cô, anh thú nhận rằng ngay từ lần gặp đầu tiên anh đã bị đôi mắt ấy hút hồn. Vẻ yếu ớt và hơi ngơ ngác trẻ thơ của cô làm cho anh mềm lòng, anh sung sướng tự hào được giữ vai trò che chở cho cô trước cuộc đời đầy sóng gió, anh gồng lên để thực hiện vai trò đó đến quá sức mình, để rồi cuối cùng chính anh là người gặp nạn... “Kiên chọn vợ như vậy là phải quá rồi. Một cô vợ tháo vát thế này mới có thể làm chỗ dựa cho anh ấy được, nhất là khi công việc làm ăn gặp khó khăn như hiện nay, chứ cứ như mình thì...”, Lan Chi nghĩ với đôi chút chạnh lòng. Cô rất muốn hỏi thăm Kiên về những chuyện không may của công ty anh, nhưng lại ngần ngại khi nhớ rằng hồi xưa anh luôn luôn tránh nói chuyện làm ăn với cô. “Với Thi thì chắc anh ấy nói hết được, có khi còn phải hỏi ý kiến ấy chứ”, Lan Chi chua chát nghĩ.
Kiên có vẻ hơi mệt mỏi và già đi so với hồi gặp Lan Chi ở Berlin. Cô nhận thấy những nếp nhăn hằn rõ ở khóe mắt anh mà lần gặp trước hình như không có.
- Anh có khỏe không? - Lan Chi khẽ hỏi khi vợ Kiên đi ra khỏi phòng khách để lấy khăn lau mũi cho thằng con.
- Anh bình thường thôi, - tự nhiên, Kiên cũng hạ giọng trả lời. Rồi, vẫn nói nhỏ như vậy, anh chuyển sang đề tài khác: - À, hôm nào phải lên Hồ Tây ăn bánh tôm chứ Lan Chi nhỉ.
Lan Chi chưa kịp trả lời thì Thi đã đột ngột bước từ phòng bên cạnh ra, nói một cách vui vẻ quá mức:
- Anh ơi, chị Lan Chi ở Pháp về mà anh lại định mời đi ăn bánh tôm thì chị ấy cười cho đấy. Hồ Tây thì thiếu gì nhà hàng đặc sản mà anh lại mời chị ấy đi ăn cái thứ rẻ tiền như thế. Hay là để hôm nào vợ chồng mình mời chị Lan Chi đi ăn nhà hàng anh nhỉ? Cái chỗ mà bọn mình thỉnh thoảng vẫn đến ăn ấy, em thấy được đấy anh ạ, - Thi vừa nói vừa ngồi xuống sát cạnh Kiên.
Một ý nghĩ lướt nhanh trong đầu Lan Chi: “Bánh tôm Hồ Tây thế là toi rồi!” Cô đang cười cười vì chưa biết nói gì thì Kiên chợt bảo:
- À, quên chưa kể với Lan Chi. Quân đang ở Hà Nội đấy, em biết chưa? Có gì bọn mình rủ Quân, hôm nào cả hội chọn chỗ nào đi ăn cùng luôn thể cho vui.
- Quân đang ở Hà Nội à? - Lan Chi mừng rỡ hỏi. – Quân về từ lúc nào đấy? Về có lâu không, có mang theo vợ con không?
- Quân mới về quãng hơn một tuần nay. Về công tác vài tuần thôi. Đi một mình, - Kiên đáp.
- Chị Huyền với thằng cu con vừa về hồi đầu năm rồi còn gì. Với lại, nghe nói chị ấy lại đang có bầu đứa thứ hai đấy anh ạ, - Thi nói xen vào và chẳng hiểu sao lại nhìn Kiên mỉm cười âu yếm một cách đầy ẩn ý.
- Huyền là vợ Quân, - Kiên giải thích cho Lan Chi.
Lan Chi hỏi Kiên số điện thoại và địa chỉ của Quân để đến chơi. “Nhà Quân hơi khó tìm đấy. Hay để anh đưa em đi cho tiện?”, Kiên đề nghị. Lan Chi từ chối, viện cớ chưa sắp xếp được thời gian, rảnh lúc nào thì đi lúc ấy thôi. Kiên bèn dặn Lan Chi nhớ hẹn Quân chọn ngày đi ăn cùng rồi báo lại cho anh biết. “Anh ơi, để em gọi điện cho anh Quân hẹn ngay bây giờ có hơn không, khỏi phiền chị Lan Chi gọi điện nhiều lần, anh nhé?”, Thi khẽ đặt tay lên đùi chồng, sốt sắng nói. “Thôi, cứ để Lan Chi bàn với Quân”, Kiên gạt đi.
Ngồi một lúc, Lan Chi bắt đầu thấy chóng mặt vì nhịp điệu dồn dập của những “anh ạ, anh nhé, anh ơi, anh nhỉ” ngọt ngào và rộn rã. Tự nhiên, cô thấy mình lạc lõng vô duyên trong khung cảnh gia đình đầm ấm này, và càng tiếc là không có Trung cùng về Hà Nội. “Thôi, em phải về đây. Mình về Thi nhé”, cô đột ngột đứng dậy nói nhân lúc câu chuyện vừa lắng xuống. “Hãy còn sớm. Em vừa mới đến có mấy phút”, Kiên vụt nói như bị hẫng. “Chị và cháu ở lại ăn cơm với nhà em đi. Bạn cũ lâu ngày gặp nhau, chắc anh Kiên còn muốn nói chuyện nhiều”, Thi mời. “Cám ơn Thi, nhưng mình còn hai đứa bé ở nhà nên phải về cho chúng nó ăn tối”, Lan Chi vừa nói vừa đi ra cửa. Kiên lẳng lặng đi theo tiễn, chẳng nói thêm câu nào. Khi mở cửa cho Lan Chi bước ra, anh bỗng nói như vừa sực nhớ: “Cho anh địa chỉ và số điện thoại nhà bà cô của em đi”. “Em chẳng mang theo giấy bút gì cả”, Lan Chi trả lời. Trong lúc đứng đợi Kiên chạy đi lấy giấy bút, Lan Chi chợt cảm thấy cái nhìn của vợ Kiên hướng vào mình không còn được thân thiện như trước nữa. Ghi xong những thứ mà Kiên yêu cầu, cô bèn vội vã kéo con trai ra về ngay.
Buồn, buồn rười rượi là cảm giác tràn ngập lòng Lan Chi dọc đường đạp xe về. Từ lâu, trong thâm tâm cô vẫn luôn luôn mong Kiên hạnh phúc, nhưng hóa ra chứng kiến tận mắt hạnh phúc của anh lại là một điều hoàn toàn không phải dễ. Giọng nói, tiếng cười vui vẻ của vợ Kiên cứ vang lên lảnh lói bên tai Lan Chi mãi không thôi. Vậy là Kiên có một cuộc sống gia đình hạnh phúc thực sự chứ không có gì đáng buồn như cô tưởng nhầm hồi gặp anh ở Berlin. Anh có một người vợ trẻ hơn cô, xinh ít nhất không kém cô, nhanh nhẹn tháo vát chắc chắn hơn cô nhiều. Anh có một ngôi nhà to đẹp gấp nhiều lần ngôi nhà ngày xưa anh từng mơ ước cho cô và anh. Anh có tất cả để hạnh phúc, những chuyện không may trong công việc chắc chắn rồi sẽ qua đi. Với anh, Lan Chi bây giờ chỉ là một kỷ niệm đẹp không hơn không kém. Nếu trong mắt anh đôi lúc có những thoáng buồn thì cũng chỉ là một chút nhớ thương dành cho tuổi trẻ đã mất mà thôi. Cô không hề có chỗ trong cuộc sống của anh, không có từ mười hai năm nay rồi và sẽ không bao giờ có cả. Cô tự bắt mình phải mừng cho Kiên, tự mắng mình là ích kỷ, tự nhủ rằng nếu anh bất hạnh thì mình sẽ còn đau khổ hơn nhiều. Nhưng mặc cho lý trí tha hồ lên tiếng, nỗi buồn vẫn cứ khăng khăng bám riết trái tim.
Sáng hôm sau, Lan Chi gọi điện thoại đến nhà Quân. Chỉ gặp mẹ Quân, cô bèn xưng là bạn cũ, mới ở xa về. Mẹ Quân nói là anh đang về quê với bố, đến sáng ngày kia mới quay lại Hà Nội. “Vậy quãng chiều ngày kia cháu đến thăm Quân có tiện không hả bác?”, Lan Chi hỏi. “Vâng, ngày kia, hai mươi sáu tháng mười hai, chị cứ lại, buổi chiều thì chắc chắn em nó có ở nhà rồi”, mẹ Quân nói rõ thêm.
“Ừ nhỉ, hôm nay đã là hai mươi tư tháng mười hai, Noel rồi đấy!”, Lan Chi sực nhớ. Cô tự hỏi không biết Trung đang ở đâu? Ở bệnh viện, ở nhà hay lên Paris ăn Noel với gia đình Hạnh? Cô bỗng thấy nao nao thương chồng. Đây là lễ Noel xa vợ con đầu tiên của Trung, nhìn cảnh thiên hạ tụ họp gia đình, chắc là anh sẽ thấy cô đơn lắm. Nhìn đồng hồ, Lan Chi nhẩm tính bây giờ đang là đêm ở Pháp. Cô dự định đợi thêm vài tiếng nữa rồi gọi điện thoại cho chồng: sáng sớm, may ra thì anh có ở nhà.
Nhưng Trung không ở nhà, cũng không ở bệnh viện khi Lan Chi gọi điện thoại đến. Cô đoán anh đi Paris, đang phân vân chưa biết nên gọi điện đến nhà Hạnh lúc nào thì Trung đã gọi về nhà bà cô của Lan Chi. “Anh ở đâu đấy? Em đang định gọi điện cho anh”, Lan Chi mừng cuống quýt. Trung bảo anh vừa mới đến Paris, đang ở nhà Hạnh và chuẩn bị vào bệnh viện thăm má, thấy Hạnh nói má đã đỡ mệt nhiều. Tối nay, anh sẽ ăn Noel cùng với gia đình Hạnh, sáng mai lại về nhà. Trung kêu vợ con mới đi có vài ngày mà sao anh đã thấy như lâu quá, anh đã mua quà Noel cho cả bốn mẹ con, để ở nhà đợi mọi người về đó. “Noel ở Paris có vui không anh?”, Lan Chi hỏi. “Không có gì đặc biệt. Món gà tây thì chắc không ngon bằng em làm được đâu”, Trung hạ giọng thấp hẳn đi khi nói câu cuối, có lẽ để mọi người xung quanh khỏi nghe thấy. Lan Chi hình dung anh đang khẽ mỉm cười. Tự dưng, cô thấy nhớ quá chừng không khí gia đình ấm cúng quanh bàn tiệc Noel, mùi gà tây rôti thơm nức mũi, ánh đèn màu nhấp nháy trên cây thông đặt ở góc phòng, những gói quà bọc giấy màu bóng bẩy và thắt nơ diêm dúa, tất cả những thứ mà bao nhiêu năm nay cô vẫn hờ hững nhìn như là các nghi thức không tránh được mà thôi...
Quân mừng ra mặt khi nhìn thấy Lan Chi: “Nghe mẹ mình bảo có chị Chi nào đó hẹn đến chơi, đoán già đoán non mãi không ra, không ngờ lại là Lan Chi”.
Hai bên nhanh chóng xúc tiến trao đổi thông tin hai chiều. Về mặt con cái, Quân chỉ bằng nửa Lan Chi: cô có ba con, còn anh hiện mới có “một rưỡi”. “Đang hy vọng sẽ được một cô con gái cho có nếp có tẻ đây”, Quân nói một cách hớn hở. Về đường công danh, Quân đang bước vào giai đoạn đỉnh cao của “sự nghiệp lớn”: ngoài công việc cố định với tư cách giáo sư ở một trường đại học Mỹ, anh còn thường xuyên tung hoành năm châu bốn biển với danh nghĩa “giáo sư mời” thực chất hẳn hoi ( chứ không phải chỉ là cái vỏ như một vài vị “giáo sư xin” vẫn được nêu gương trên báo chí). Quân bảo năm nào anh cũng về nước ít nhất một lần trong chương trình hợp tác khoa học với Việt Nam, để giảng bài, hướng dẫn nghiên cứu sinh hoặc tham dự các hội nghị khoa học. “Giới báo chí có đến phỏng vấn không?”, Lan Chi cười hỏi. “Không thấy ai đến cả. Mình lỗi thời rồi, không còn gì hấp dẫn nữa”, Quân cũng cười đáp.
Ngồi nói chuyện một lát, Lan Chi bèn hỏi Quân về chuyện công ty Kiên bị đóng cửa - điều mà cô vẫn canh cánh trong lòng từ khi nghe Tuyết kể, nhưng không dám hỏi Kiên. Quân bảo rằng anh có biết chuyện này: đó là một vụ trốn thuế quy mô nhỏ thôi, Kiên không phải chịu trách nhiệm trực tiếp, công ty của Kiên chắc sẽ lao đao một dạo nhưng rồi cũng qua khỏi chứ không phải đóng cửa hẳn đâu. Cảm thấy nhẹ nhõm hẳn đi, Lan Chi liền quay sang chuyện khác:
- Tuần này Quân có rảnh không? Vợ chồng Kiên đang muốn rủ bọn mình hôm nào cùng đi ăn nhà hàng cho vui đấy.
- Vợ Kiên về rồi à? - Quân ngạc nhiên hỏi.
- Hôm nọ mình có gặp Thi khi đến chơi nhà Kiên. Thế ra Thi mới đi công tác xa về à? - Lan Chi hỏi lại.
- Công tác gì đâu, - Quân cười một cách bí ẩn. - Đi “tị nạn” ở nhà bố mẹ đẻ thì có. Chả lẽ Lan Chi không biết chuyện này hay sao?
Không, Lan Chi không hề biết, đây là lần đầu tiên cô được nghe nói đến chuyện này. Thế thì lạc hậu thật, Quân bảo. Hóa ra, việc vợ Kiên đi “tị nạn” vẫn xảy ra liên tục như cơm bữa, đến bây giờ chẳng còn là bí mật đối với ai, cũng không còn làm ai ngạc nhiên được. Nhưng lần đầu tiên thì kể cũng khá kinh hoàng: chưa đầy một tháng sau ngày cưới, không hiểu vợ chồng cãi nhau thế nào mà tự dưng thấy Thi đùng đùng vác quần áo về nhà bố mẹ đẻ ở. Hai gia đình xúm lại hỏi lý do nhưng cả anh lẫn ả đều nhất quyết không chịu nói. Nếu không có mẹ Kiên đem đến cả nước mắt ra làm vũ khí thì chưa chắc Kiên đã vội đến nhà bố mẹ vợ để làm lành và đón vợ về. Sau đó, tưởng đã yên được một dạo khi vợ chồng Kiên bận rộn lo việc làm nhà, rồi Thi có bầu và sinh con. Nhưng thằng bé chưa đầy một tuổi thì lại có chuyến “tị nạn” thứ hai, lần này bố mẹ vợ Kiên phải đón luôn hai nhân khẩu. Rồi từ đó thì cứ là những cuộc thay đổi chỗ ở thường xuyên giữa hai nhà của vợ con Kiên. Mẹ Kiên đã phát ngán lên, không còn nhỏ ra được giọt nước mắt nào, cũng chẳng thèm can thiệp nữa.
Chuyến “tị nạn” kéo dài nhất của Thi chính là lần này: nó bắt đầu cách đây năm tháng, sau khi Kiên đi công tác ở Đức về, và mười ngày trước đây, lúc Quân mới về nước, đến chơi với Kiên thì được biết là Thi vẫn còn bám trụ ở nhà bố mẹ đẻ. Kiên không hề có ý định làm lành, thậm chí còn nói đến chuyện ly dị khi Quân hỏi thăm. Cứ tưởng phen này hỏng thật rồi, không ngờ vợ Kiên lại quay về đột ngột như vậy.
- Sao lại khổ thế hả Quân? – Lan Chi choáng váng hỏi. - Mình thấy vợ Kiên được lắm cơ mà: xinh đẹp, trẻ trung, lại có vẻ nhanh nhẹn, thông minh và rất khéo cư xử...
- Thì đúng vậy. Cô Thi này hồi chưa chồng là có nhiều anh theo lắm đấy. Còn Kiên lúc ấy nói thành thực ra cũng đã “cà cuống” rồi, sắp ế đến nơi, không lấy vợ nhanh thì thành hâm ấy chứ. Cứ tưởng cậu ta lấy được Thi là mèo mù vớ được cá rán, vậy mà sống với nhau ẩm ương chả ra sao cả. Cái chính có lẽ do không hợp tính tình. Thi thực dụng quá, trong khi Kiên từng ấy tuổi rồi mà vẫn cứ tâm hồn nghệ sĩ phiêu diêu. Thấy Kiên bảo là chả biết nói chuyện gì với vợ cả. Lúc làm nhà thì còn có chuyện cái nhà mà nói. Nhà xong rồi thì cả tháng không kiếm ra được chuyện để nói với nhau, mà cũng chẳng thấy có nhu cầu. May mà còn có được một đề tài chung là thằng cu con, chứ không chắc đã bỏ nhau lâu rồi. Sau vụ này, mình đã thề là từ nay không có mối lái cho ai nữa. Đúng là làm phúc phải tội.
- Quân nói vậy là thế nào? - Lan Chi ngạc nhiên. - Có phải Quân làm mối cho Kiên và Thi không?
- Chính thế, - Quân tự hào xác nhận.
Sự kiện lạ đời này diễn ra sau đám cưới “đổ mồ hôi” của Quân khoảng một năm. Dạo đó, Quân cùng vợ từ Mỹ về nước chơi. Đến thăm Kiên, thấy ông bạn cố tri mãi vẫn còn bơ vơ, Quân ái ngại bèn giúp cho mấy lời khuyên thiết thực. Đầu tiên, anh vạch ra cho Kiên thấy rằng đến tuổi này mà cứ còn hy vọng vào những cuộc gặp gỡ tình cờ thì thật là hết sức hão huyền. Rồi anh lại hùng hồn chứng minh tiếp rằng việc mai mối không hề ngăn cản người ta có được một tình yêu chân chính. Không những thế, anh nhấn mạnh thêm là phương pháp này lại có một cái lợi hiển nhiên: cả hai bên đều đã rõ ý đồ của nhau, khỏi phải vòng vo mất thời gian. Kiên tự nhiên bị thay bậc đổi ngôi, biến thành học trò, trong bụng hẳn là rất hận nhưng rõ ràng lép vế nên đành nhẫn nhục ngồi nghe Quân dạy. Được một lúc thì Kiên sốt ruột bảo: “Nói lý thuyết nhiều nghe chán lắm, có đám nào thì giới thiệu đi, thực hành cái thử xem.” Quân ngắc ngứ, đã định tìm cách đánh bài chuồn, nhưng vợ anh lại nghĩ ngay đến một cô bạn hàng xóm xinh đẹp chưa chồng. Thi hồi đó rất cao giá, có khối kẻ mê, vậy mà chẳng hiểu tại sao lại chết anh Kiên ngay lập tức. Được người đẹp như thế mê mình, ai mà chẳng thích, nói gì đến một anh chàng đang cần lấy vợ như Kiên. Quen nhau chỉ hai tháng là họ làm đám cưới, Quân đã quay lại Mỹ nên không được dự. Năm sau trở về thì đã nghe chuyện vợ chồng Kiên lục đục rồi Sau buổi gặp Quân vài ngày, Lan Chi gọi điện đến nhà Kiên để báo rằng cô và Quân không thu xếp thời gian đi ăn nhà hàng cùng vợ chồng Kiên được: Quân phải vào dự hội nghị khoa học ở Sài Gòn cho đến sát ngày Lan Chi quay lại Pháp mới trở ra Hà Nội, về phần Lan Chi thì về nước có ít ngày nên cũng rất nhiều việc bận, thôi đành khất hẹn đến một dịp sau.
Kiên không có ở nhà, người nghe điện thoại là vợ anh. Giọng Thi khá lạnh lùng, khô khan, không hề có chút âm sắc vui vẻ, niềm nở của ngày hôm trước. Hai người trao đổi với nhau vài câu ngắn gọn rồi dập máy. Lan Chi thở phào: dù thái độ của Thi làm cho cô không thoải mái, cô vẫn cảm thấy nhẹ nhõm vì không phải trực tiếp nói chuyện với Kiên. Cô sợ phải nghe giọng nói thất vọng của anh.
Kiên gọi điện lại cho Lan Chi ngay ngày hôm sau. “Anh không thể mời em đi ăn thiếu Quân được à?”, anh giận dỗi hỏi. Lan Chi ấp úng. Cô không dám nói rằng cô đã biết hết cả rồi, cô không thể nhận lời mời của anh vì không lòng dạ nào mà bắt cả mình lẫn vợ chồng anh phải chịu đựng cái màn bi hài kịch “gia đình hạnh phúc” ấy thêm lần nữa, và nhất là cô lại càng không muốn làm tổn hại đến hạnh phúc vốn đã rất mong manh của gia đình anh.
- Lần này em về nước ít ngày quá nên bận thật đấy, - Lan Chi nói sau vài giây do dự. - Họ hàng, bạn bè kéo đi khắp nơi, mà cũng chẳng dám đi nhiều vì sợ bọn trẻ con nó mệt. Thôi, anh cho em khất đến lần sau nhé.
- Nhưng còn bánh tôm Hồ Tây thì sao hả Lan Chi? Anh đã hứa với em, em cũng đã hẹn với anh...- Kiên nói với vẻ tuyệt vọng như thể toàn bộ vận mệnh anh đều phụ thuộc vào việc có rủ được Lan Chi đi ăn bánh tôm hay không.
- Để lần sau vậy, - không biết nói gì hơn, Lan Chi lặp lại. Cảm thấy sống mũi đã cay cay, cô vội vã cắt ngang cuộc nói chuyện: - Thôi nhé, bây giờ em có việc phải đi, có gì em sẽ gọi điện lại cho anh.
Nhưng Lan Chi không gọi điện thoại lại cho Kiên: cô đã quyết định sẽ tránh mặt anh cho đến trước khi trở về Pháp mới chào tạm biệt.
Những ngày còn lại ở Hà Nội của Lan Chi trở nên u ám hẳn sau khi cô được biết về nỗi bất hạnh của gia đình Kiên. Cô đau đớn nghĩ rằng mình không có khả năng làm gì được cho anh ngoài việc cầu mong cho anh và Thi hàn gắn lại. Thi yêu anh, Thi có thể đem lại cho anh hạnh phúc. Còn cô, điều duy nhất mà cô nên làm bây giờ là biến hẳn khỏi đời anh để tránh cho tình hình phức tạp thêm. Ý nghĩ rằng trong lúc cô hạnh phúc với Trung thì Kiên có thể ly dị vợ và sống cô độc một mình làm Lan Chi khổ tâm không chịu nổi. Mặc cảm có lỗi với Kiên lại trở về đè nặng trong lòng cô, day dứt hơn bao giờ hết.
Kiên còn gọi điện thoại đến nhà bà cô của Lan Chi thêm hai lần nữa để hỏi xem cô có rảnh không thì anh đến chơi. Cả hai lần, Lan Chi đều thoái thác là “có hẹn” và “rất bận”.
Mà đúng là Lan Chi bận thật. Sau bao nhiêu năm cô mới trở về Hà Nội, lại về đúng vào tháng mười hai, tháng có ngày giỗ mẹ cô. Mộ bố mẹ Lan Chi hiện giờ nằm cạnh nhau ở quê nội của cô, một làng ngoại thành Hà Nội. Lan Chi mua hương hoa và đưa ba đứa con về quê thăm mộ ông bà ngoại chúng. Ở lại nhà ông bác trong quê một ngày, hôm sau cô trở lại nhà bà cô ở Hà Nội, buồn rũ rượi mất mấy hôm chẳng thiết đi đâu. Nhưng rồi cũng phải đi vì lũ trẻ cuồng cẳng không ngồi nhà lâu được. Lại có thêm một lô bạn bè cũ liên tục đến rủ đi chơi: bạn cấp hai, bạn cấp ba, bạn thời đại học ở Nga..., đủ cả. Nhiệm vụ trọng tâm của những chuyến đi chơi cùng bạn bè này là nếm lại bằng hết tất cả những món ăn thuộc cái danh sách “thèm” mà Lan Chi đã lập ra với bao nhiêu nhớ tiếc trong những năm dài của cuộc sống tha hương. Quán ăn được bọn bạn cô chọn lựa rất kỹ lưỡng, vậy mà không hiểu sao khi ăn Lan Chi luôn luôn gặp phải cái cảm giác kỳ lạ “rất ngon nhưng không giống hẳn” như hôm đầu ăn bún chả ở nhà bà cô. Sau khi nghe bạn bè cô khẳng định rằng những hàng này bao nhiêu năm vẫn làm đúng một kiểu như vậy, không hề thay đổi, Lan Chi buồn rầu nghĩ rằng có lẽ sự thay đổi chính là ở phía cô.
Cái ngõ nhỏ của Lan Chi cũng không còn giống như cô vẫn hình dung trong nỗi nhớ. Hôm chiêu đãi ba đứa con một chầu đi chơi phố bằng xích lô sans souci ( một trong những kỷ niệm đáng ghi nhớ nhất của ba anh em cu Nam trong chuyến đi này ), Lan Chi đã chỉ đường cho xích lô rẽ qua nhà cũ của mình. Xích lô dừng lại vài phút, Lan Chi lạ lẫm nhìn khung cảnh xưa: cây bàng “sâu róm” đầu ngõ không còn, mặt đường phẳng phiu chứ không gồ ghề đậm nhạt nhiều mảnh vá, nhà cũ phá bỏ nhà mới xây lên khắp nơi... Và điều bất ngờ nhất là cái “thế giới tuổi thơ” của cô bây giờ sao trông như nhỏ hẹp lại đi đến chỉ còn một nửa! Tại vì những ngôi nhà mới nhiều tầng đã choán mất một phần không gian trong ngõ, hay vì suốt bao nhiêu năm qua mắt cô chỉ quen nhìn những đường phố lớn mà thôi? Ngồi trên xích lô đi tiếp loanh quanh vài vòng cho lũ trẻ được dạo chơi, Lan Chi vừa ngượng ngùng vừa buồn bực vì phải hỏi và nghe ông xích lô giải thích cặn kẽ cho cô như cho một khách du lịch nước ngoài về những đường phố mà cô không thể nhận ra, về những công trình mới xây sau khi cô đã rời Hà Nội. Mọi thứ đã thay đổi quá nhiều trong hơn chục năm qua, cuộc đời cô đã tách rời khỏi số phận của quê hương, cô đã phần nào trở thành người lạ Hai ngày trước khi Lan Chi trở lại Pháp, Kiên đến tìm cô bất ngờ vào quãng hơn chín giờ tối, lúc cả ba đứa con cô đều đã lên giường đi ngủ. “Anh phải đến vào giờ này mới chắc gặp được em. Ban ngày, sợ em đi chơi”, anh nói.
Kiên đưa cho Lan Chi một đống quà cho ba đứa trẻ con và một bức tranh được gói ghém cẩn thận.
- Anh đem đến cho em cái này, không hiểu em còn thích không, - anh nói một cách hơi lúng túng. - Để làm kỷ niệm thôi chứ chẳng có giá trị gì đâu. Đây là cái tranh anh vẽ ngày xưa. Cái mà em thích nhất.
- “Mắt thô lố” à? - Lan Chi cười hỏi.
- “Mắt mênh mông”, - Kiên trả lời, vẻ lúng túng bị xóa đi ngay bằng một nụ cười rất thân thương đối với Lan Chi.
- Bao nhiêu năm rồi mà sao anh vẫn còn giữ được? - Lan Chi ngạc nhiên.
- Anh chỉ còn giữ một vài bức thôi. Trước khi sang Ba Lan, anh có đem mấy bức được nhất đến gửi nhà một thằng bạn ở Matxcơva, đến khi nó về nước thì nó lại quẳng vào thùng hàng biển, mang về Hà Nội hộ anh.
- Dạo này chắc anh vẫn còn vẽ chứ?
- Không đâu, anh bỏ lâu rồi. Chẳng có thời gian. Cũng chẳng còn cảm hứng.
- Tiếc nhỉ... Hồi trước, em chẳng thể hình dung anh thiếu cái giá vẽ được.
- Có bao nhiêu điều mà hồi trước mình có hình dung được đâu.
Vài phút im lặng trôi qua. “Em pha nước anh uống nhé”, Lan Chi nói và định đi lấy ấm chén để pha trà. Kiên vội xua tay: “Thôi, muộn rồi, anh về ngay đây. Anh chỉ định đến hỏi xem ngày kia mẹ con em đi lúc mấy giờ.” Lan Chi nói giờ của chuyến bay. Kiên hỏi anh có thể đi tiễn mấy mẹ con được không? “Đã có Vũ, em họ của em đi tiễn rồi. Như vậy tiện hơn anh ạ”, Lan Chi trả lời. “Thế thì anh sẽ ra thẳng sân bay”, Kiên nói bằng một giọng cương quyết khiến Lan Chi không thể có thêm ý kiến gì được nữa.
Lan Chi đi tiễn Kiên ra đến tận cổng của khu nhà. Lúc đi đến chỗ để xe máy của anh, đột nhiên Kiên quay lại hỏi Lan Chi:
- Tại sao mấy ngày qua em cứ tìm cách tránh mặt anh?
- Em... em có tránh mặt anh đâu, - Lan Chi luống cuống nói.
- Quân nói cho em biết hết rồi phải không? - Kiên lại hỏi, giọng bỗng trở nên hơi gay gắt.
- Vâng, em biết hết cả rồi. - Lan Chi thú nhận. Rồi cô nói liền một mạch, rất nhanh: - Vợ chồng anh đang có chuyện không vui, em không muốn đổ thêm dầu vào lửa. Em không muốn làm cho Thi khó chịu. Em không muốn gây thêm bất hòa giữa anh và Thi.
- Em có gây bất hòa bao giờ đâu, - giọng Kiên dịu hẳn đi. - Anh và Thi đã lục đục từ lâu rồi. Em về nước mà tránh anh thì chỉ làm cho anh buồn thôi chứ cũng chẳng cứu vãn gia đình anh được.
- Sao lại không cứu vãn được? Nếu anh cố lên một tí thì nhất định sẽ đâu vào đấy thôi. Em thấy Thi rất dễ thương. Cô ấy xinh hơn em nhiều, - Lan Chi nói bằng một giọng như dỗ dành, năn nỉ.
- Anh có nói Thi xấu bao giờ đâu, - Kiên bật cười. - Hồi mới quen, anh cũng thấy cô ấy khá xinh. Nhưng xinh hơn em thì... mắt anh không bao giờ thấy thế. Trong mắt anh, không ai có thể đẹp bằng em được.
- Thi hơn em nhiều thứ lắm, - Lan Chi nói với vẻ gần như tuyệt vọng. - Thi nhanh nhẹn, tháo vát chứ không lớ ngớ như em...
- Thi không có những cái mà anh yêu nhất ở em, - Kiên ngắt lời Lan Chi. - Cô ấy không nhẹ nhàng, tinh tế như em. Cô ấy không dịu dàng, đằm thắm như em. Hồi đầu, anh cứ tưởng Thi có thể giúp anh quên em được. Nhưng càng sống lâu với Thi thì anh lại càng nhớ em hơn.
- Nhưng anh cần phải quên em! - nước mắt Lan Chi đã bắt đầu chảy ra, cô nghẹn ngào nói.
- Anh không thể quên em. Anh không muốn quên em! - Kiên đáp một cách bướng bỉnh.
- Thi mới là người có thể cho anh hạnh phúc. Còn em, em chẳng có gì để cho anh nữa cả. Muộn quá rồi! - Lan Chi vừa nói vừa cố cầm nước mắt.
- Nhưng anh có yêu cầu gì em đâu. Được đứng bên em, được nhìn thấy em, được nghe em nói thế này đối với anh đã là hạnh phúc.
- Đến cả cái hạnh phúc nhỏ nhoi ấy em cũng chẳng thể cho anh lâu được. Mấy ngày nữa là em lại đi rồi. Anh phải quên em đi. Em không thể chịu đựng được nếu anh cô độc và bất hạnh. Em không thể chịu đựng được... - Lan Chi thổn thức.
Anh bước sát lại gần và vuốt nhẹ tóc cô: “Đừng khóc nữa Lan Chi. Anh cũng không chịu đựng được khi nhìn em khóc.” Không kìm nổi, cô gục đầu vào vai anh và khóc nức lên. Kiên đứng lặng, sững sờ. Anh có cảm giác như đang trở về quá khứ khi nhìn mái đầu của Lan Chi run rẩy trên vai mình, như ngày xưa... như ngày xưa.
Khi cô ngẩng đầu lên, Kiên cúi xuống và phác một cử chỉ như muốn hôn lên môi cô. Lan Chi lắc đầu và lùi lại. Kiên như bừng tỉnh, anh vội nói: “Thôi, anh về đây. Ngày kia, anh sẽ ra sân bay.” Đường ra sân bay có vẻ thoáng đãng hơn, không chen chúc toàn người là người như hôm Lan Chi trở về Hà Nội. “Có thể là vì mình đã bắt đầu quen nhìn cảnh này rồi”, Lan Chi nghĩ. Cô mơ màng nhìn khung cảnh lướt qua cửa xe, tự hỏi không biết đã bao nhiêu lần mình đi trên con đường này nhỉ? Đã bao nhiêu lần cô rời Hà Nội ra đi?
- Chúng mình đi về nhà với ba hả mẹ? - ngồi bên cạnh Lan Chi, bé Lan Anh chợt hỏi.
- Ừ, chúng mình về nhà. Con nhớ ba lắm rồi phải không? - Lan Chi âu yếm hỏi lại.
Con bé gật đầu rồi nói, nửa như hỏi, nửa như khẳng định:
- Mẹ cũng nhớ.
- Ừ, mẹ cũng nhớ, - Lan Chi mỉm cười xác nhận.
Cô ngả người vào lưng ghế, nhắm mắt lại. Bỗng thấy thèm giọng nói ấm áp của chồng, sự gần gũi dịu dàng và âu yếm của anh. Bỗng thấy cần sự yên ổn ở ngôi nhà nhỏ thân thương, ở nhịp điệu đều đặn của cuộc sống hàng ngày quen thuộc. Bỗng thấy nhớ bờ sông Garonne những chiều thư thả, ngồi tựa đầu vào vai chồng, nhìn lũ con đùa nghịch trên thảm cỏ xanh... Rồi bỗng thấy chạnh lòng tủi thân khi chợt bắt gặp mình đang ghen tị với dòng người hối hả ngược xuôi trên đường phố. Ghen với sự thanh thản của một tình yêu trọn vẹn không bị giằng xé làm đôi. Ghen với cái hạnh phúc bình yên khi nhà và quê hương là một.
Taxi dừng lại ở sân bay. Vũ vừa chạy đi tìm xe đẩy để chở các vali của Lan Chi thì Kiên xuất hiện. Bó hồng nhung đỏ thắm trong tay anh làm chiếc áo khoác màu be sáng mà anh mặc trên người cũng hồng rực lên.
- Đây là hoa hồng Đà Lạt. Không đẹp bằng hoa hồng Matxcơva, nhưng anh đã tìm khắp nơi rồi, chỉ có thế này là được nhất thôi, - Kiên nói như xin lỗi.
- Hoa đẹp lắm đấy chứ, - Lan Chi đỡ bó hoa từ tay Kiên và bỗng mỉm cười. - Anh biết không, hồi em mới ở Matxcơva về Hà Nội, em cũng đi bán hoa Đà Lạt để kiếm thêm tiền đấy.
- Thật à? - Kiên hỏi với vẻ hết sức ngạc nhiên. - Thế mà hồi xưa anh lại cứ tưởng tính em mơ mộng, không làm những chuyện dính dáng đến buôn bán tiền nong được.
Một ý nghĩ vụt qua trong đầu Lan Chi: “Vậy là Kiên không nhận được thư mình kể chuyện đi bán hoa. Hay là anh ấy quên?” - Thì đúng là hồi xưa em mơ mộng thật, cho nên đi bán hoa đã đánh mất tiền đấy, - cô cười đáp. - Nhưng bây giờ thì em “tỉnh” ra nhiều rồi. Bao nhiêu năm nay em bán sách có xảy ra chuyện gì đâu.
- Hoa hồng Matxcơva đúng là đẹp hơn hẳn thật. Mọi khi anh không chú ý đến điều này, hôm nay đi chọn hoa mới nhận ra, - Kiên lại nói. Rồi mắt anh chợt sáng lên. - À, nếu mọi chuyện ở công ty anh yên ổn thì có thể nửa năm nữa anh sẽ có việc phải đi Matxcơva đấy. Nếu lúc đó mà gặp được ai sang Pháp thì anh sẽ gửi hoa hồng cho em nhé.
- Thôi, việc gì phải rắc rối thế hả anh. Mà Matxcơva chắc bây giờ cũng đã thay đổi nhiều rồi.
Kiên có vẻ muốn đáp lại điều gì thì bất chợt bé Lan Anh đang ngồi trên chiếc vali cạnh đó đứng dậy giật áo mẹ: “Mẹ ơi, chú Vũ lấy được xe đẩy rồi kìa. Chúng mình xếp vali lên nhé.” Kiên hơi giật mình. Từ nãy, mải nói chuyện, anh không để ý đến mấy đứa con của Lan Chi.
- Hai đứa sinh đôi của em đây phải không? - anh nhìn Lan Anh và Việt Anh rồi hỏi. - Sao giống mẹ quá thế này!
- Vâng, ai cũng bảo là hai đứa này giống mẹ. Thằng cu đầu thì lại giống ba nó...- Lan Chi kể.
Nhưng Kiên hình như không còn chú ý nghe cô nói nữa. Mắt anh hướng vào bé Lan Anh của cô. “Con gái em xinh quá!”, anh nói. Con bé thấy được người lạ khen thì thẹn thò mỉm cười với Kiên rồi hạ hàng mi rợp hướng cái nhìn xuống đất. Lan Chi thấy mắt Kiên như mờ đi, xa xăm. Ngày xưa, anh mơ một bé gái đầu lòng có nước da trắng mịn, đôi mắt to dưới hàng mi rợp, mênh mông, mênh mông...
Vũ mang xe đẩy lại gần. Kiên nhanh nhẹn xách luôn cả hai chiếc vali của Lan Chi đặt lên xe. Phân vân một lát, Lan Chi quay lại bảo Vũ:
- Thôi, em còn nhiều việc phải làm, cứ về luôn bây giờ cũng được. Có anh Kiên tiễn chị đây rồi.
- Ừ, phải đấy, - Kiên mừng rỡ nói theo. - Vũ có việc bận thì cứ về đi. Mình rộng rãi thời gian, có thể ở lại đây đợi đến lúc Lan Chi vào được bên trong.
Vũ chào hai người rồi đi về. Kiên đẩy chiếc xe chở vali đi cạnh Lan Chi và lũ trẻ. Họ tiến đến gần cửa kiểm tra của hải quan. Còn mười phút nữa mới đến giờ làm thủ tục cho chuyến bay của Lan Chi. “Mình đứng lại đợi ở đây thôi”, Lan Chi nói rồi nhờ Kiên hạ một chiếc vali to đặt nằm xuống đất để lũ trẻ ngồi lên đỡ mỏi.
- Em có định bao giờ lại về nước nữa không? - Kiên hỏi.
- Em chưa định chính xác được, nhưng chắc chắn thế nào cũng phải về thôi. Lần sau nhất định sẽ về lâu hơn, rồi còn phải cho bọn trẻ con vào Sài Gòn thăm quê ba chúng nó nữa chứ. Có lẽ từ nay em sẽ cố về thật thường xuyên. Lần vừa rồi chần chừ mãi mới về, thấy mọi thứ thay đổi nhiều quá, cảm giác mình cứ như là người lạ, buồn ghê cơ, - Lan Chi nói và thở dài.
- Vợ chồng em có lúc nào nghĩ đến chuyện về nước hẳn không? Bây giờ tình hình trong nước thoáng hơn nhiều rồi, anh thấy có những người đã về hẳn đấy.
- Nếu em chỉ có một mình thì em sẽ về ngay. Nhưng bây giờ nặng gánh quá rồi. Đến tuổi này, lại có ba đứa con, không phải ai cũng dám làm lại từ đầu, - Lan Chi trả lời. Rồi nhìn thấy vẻ mặt buồn bã của Kiên, cô mỉm cười nói nửa đùa nửa thật:
- Thôi, đợi khi nào mấy đứa con của em lớn lên, tự lập được, em không phải lo cho chúng nó nữa thì sẽ rủ ông xã về ở hẳn Hà Nội, tham gia câu lạc bộ hưu trí với vợ chồng anh cho vui. Rồi sáng sáng chúng mình sẽ cùng nhau ra Hồ Gươm múa võ.
- Em vẫn hệt như xưa, lúc nào cũng đùa được, - Kiên phì cười.
Đã đến giờ làm thủ tục hải quan. Nhìn dòng người đang rậm rịch chuyển động về phía cửa, Lan Chi bảo: “Có lẽ đến lúc em phải vào rồi”. Cô định nhờ Kiên nhấc chiếc vali đặt lại lên xe đẩy thì thấy anh ngập ngừng như muốn nói điều gì.
- Có chuyện gì vậy anh? - Lan Chi hỏi.
- Anh có thể hôn em để từ biệt được không? - Kiên rụt rè nói. Nhận thấy vẻ mặt lúng túng của Lan Chi, anh nói thêm: - Một cái thôi, một cái hôn từ biệt.
Lan Chi bối rối nhìn xung quanh. Sau lưng cô, anh em cu Nam đang ngồi trên chiếc vali, chụm đầu vào nhau say sưa đọc quyển truyện tranh tiếng Việt mà mẹ chúng vừa mua cho. Cô quay lại nhìn Kiên, thở nhẹ, và một tia tinh nghịch chợt lóe lên trong mắt cô.
- Hôn lên trán thôi nhé, - cô nói.
Một nụ cười làm gương mặt Kiên sáng bừng lên.
- Hôn trán thì chán chết, - anh đáp và cúi xuống đặt một nụ hôn nhẹ nhàng lên môi cô. Một nụ hôn thật dịu dàng nhưng ngắn ngủi. Rồi anh lùi lại, thở dài.
Lan Chi ngước mắt nhìn Kiên. Cô nhận thấy cặp mắt anh ngấn nước.
- Thôi, em đi nhé, - cô nói sau vài giây im lặng, đưa bàn tay gạt ngang hàng mi đẫm lệ và cố mỉm cười.
- Ừ, em đi...
Máy bay cất cánh được khoảng mười lăm phút là Việt Anh và Lan Anh đã cùng nhau lăn ra ngủ. Cu Nam thì không buồn ngủ, nó lấy cái tai nghe mà cô tiếp viên vừa phát cho, đeo vào đầu và nghe nhạc với vẻ mặt rất say sưa.
Lan Chi xếp lại chỗ ngồi để hai bé sinh đôi có thể nằm cho thoải mái. Cô cẩn thận đặt bó hoa hồng vào một góc xa để hai đứa khỏi vô ý đạp vào. “Không biết khi về đến nhà thì hoa có còn tươi không nhỉ? Hoa hồng Matxcơva thì tươi lâu lắm”, cô nghĩ. Rồi cô mỉm cười nhớ đến Kiên, nhớ đến lời anh hứa gửi hoa hồng Matxcơva sang Pháp cho cô. Tính Kiên vẫn thế, khi nào bốc lên là sẵn sàng hứa đủ mọi điều, hứa đến cả những chuyện hái trăng sao trên trời đem xuống. Anh tưởng có thể tìm được ở Matxcơva cho cô những bông hồng đẹp như hình ảnh mà anh lưu giữ trong ký ức. Nhưng làm sao mà tìm được hả Kiên? Những bông hồng đẹp như ngày xưa ấy, mình chỉ có thể tìm trong nỗi nhớ thôi anh.
2 - 5 / 2003 L.N.M.